Khải Huyền: Chương 9

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB66C009)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch Việt Ngữ

1. Và rồi thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất, và chìa khóa của vực sâu được trao cho người. 2. Khi người mở vực sâu, khói từ vực bay lên như khói của một lò lửa lớn; mặt trời và không gian bị u ám bởi khói của vực. 3. Từ trong luồng khói, châu chấu bay ra khắp đất, và chúng được ban cho khả năng giống như khả năng của bò cạp trên đất. 4. Chúng được dặn rằng không được làm hại cỏ trên đất, những vật xanh, hay cây cối, nhưng chỉ làm hại những người không có ấn của Đức Chúa Trời ở trên trán. 5. Chúng không được phép giết chết họ, nhưng hành hạ họ trong năm tháng. Sự đau đớn do chúng gây ra giống như sự đau đớn của người bị bò cạp chích. 6. Trong những ngày đó, người ta sẽ tìm kiếm sự chết nhưng không gặp; họ mong được chết nhưng sự chết tránh xa.

7. Sự xuất hiện của các châu chấu giống như ngựa sẵn sàng cho chiến trận. Trên đầu chúng có những vật giống như những mão miện bằng vàng; mặt của chúng giống như mặt người. 8. Chúng có tóc giống như tóc phụ nữ, và răng như răng sư tử. 9. Chúng có giáp che ngực như giáp bằng sắt; tiếng cánh của chúng giống như tiếng của nhiều chiến xa do ngựa kéo đang xông vào chiến trường. 10. Chúng có đuôi và nọc giống như bò cạp; những đuôi nầy có sức mạnh làm tổn thương người ta trong năm tháng. 11. Chúng có một vua, là sứ giả của vực sâu. Tên trong tiếng Hê-bơ-rơ là A-ba-đôn, và trong tiếng Hy Lạp là A-pô-li-ôn.

12. Khổ nạn thứ nhất đã qua. Kìa, sau những điều nầy còn hai khổ nạn nữa đang đến.

13. Thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe có tiếng từ bốn sừng của bàn thờ bằng vàng ở trước mặt Đức Chúa Trời, 14. nói với thiên sứ thứ sáu đang cầm kèn rằng: Hãy thả bốn thiên sứ đang bị trói tại sông lớn Ơ-phơ-rát ra. 15. Và rồi bốn thiên sứ được thả ra; họ đã chuẩn vị cho giờ, ngày, tháng, năm để giết một phần ba nhân loại.

16. Số kỵ binh của đội quân là hai trăm triệu. Đó là con số của họ mà tôi đã nghe. 17. Trong khải tượng, tôi thấy ngựa và những người cưỡi chúng có giáp che ngực màu lửa, xanh lục và lưu huỳnh. Đầu của ngựa giống như đầu sư tử; miệng chúng phun ra lửa, khói và lưu huỳnh. 18. Một phần ba loài người bị giết vì ba tai nạn nầy, đó là: lửa, khói và lưu huỳnh ra từ miệng ngựa. 19. Vì sức mạnh của ngựa ở trong miệng và đuôi của chúng; đuôi của chúng giống như những đầu của rắn, và chúng được dùng để gây thương tích.

20. Phần còn lại của loài người, là những người không bị giết bởi những tai nạn nầy, vẫn không ăn năn những công việc của tay họ, cũng không từ bỏ việc thờ lạy các quỷ, các hình tượng bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng đá, bằng gỗ là những hình tượng không thể thấy, nghe hoặc đi được. 21. Họ cũng không ăn năn những tội giết người, tà thuật, gian dâm, trộm cướp của họ.

Bản Dịch Đại Chúng

Và rồi thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất, và chìa khóa của vực sâu được trao cho người. Khi người mở vực sâu, khói từ vực bay lên như khói của một lò lửa lớn; mặt trời và không gian bị u ám bởi khói của vực. Từ trong luồng khói, châu chấu bay ra khắp đất, và chúng được ban cho khả năng giống như khả năng của bò cạp trên đất. Chúng được dặn rằng không được làm hại cỏ trên đất, những vật xanh, hay cây cối, nhưng chỉ làm hại những người không có ấn của Đức Chúa Trời ở trên trán. Chúng không được phép giết chết họ, nhưng hành hạ họ trong năm tháng. Sự đau đớn do chúng gây ra giống như sự đau đớn của người bị bò cạp chích. Trong những ngày đó, người ta sẽ tìm kiếm sự chết nhưng không gặp; họ mong được chết nhưng sự chết tránh xa.

Sự xuất hiện của các châu chấu giống như ngựa sẵn sàng cho chiến trận. Trên đầu chúng có những vật giống như những mão miện bằng vàng; mặt của chúng giống như mặt người. Chúng có tóc giống như tóc phụ nữ, và răng như răng sư tử. Chúng có giáp che ngực như giáp bằng sắt; tiếng cánh của chúng giống như tiếng của nhiều chiến xa do ngựa kéo đang xông vào chiến trường. Chúng có đuôi và nọc giống như bò cạp; những đuôi nầy có sức mạnh làm tổn thương người ta trong năm tháng. Chúng có một vua, là sứ giả của vực sâu. Tên trong tiếng Hê-bơ-rơ là A-ba-đôn, và trong tiếng Hy Lạp là A-pô-li-ôn.

Khổ nạn thứ nhất đã qua. Kìa, sau những điều nầy còn hai khổ nạn nữa đang đến.

Thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe có tiếng từ bốn sừng của bàn thờ bằng vàng ở trước mặt Đức Chúa Trời, nói với thiên sứ thứ sáu đang cầm kèn rằng: Hãy thả bốn thiên sứ đang bị trói tại sông lớn Ơ-phơ-rát ra. Và rồi bốn thiên sứ được thả ra; họ đã chuẩn vị cho giờ, ngày, tháng, năm để giết một phần ba nhân loại.

Số kỵ binh của đội quân là hai trăm triệu. Đó là con số của họ mà tôi đã nghe. Trong khải tượng, tôi thấy ngựa và những người cưỡi chúng có giáp che ngực màu lửa, xanh lục và lưu huỳnh. Đầu của ngựa giống như đầu sư tử; miệng chúng phun ra lửa, khói và lưu huỳnh. Một phần ba loài người bị giết vì ba tai nạn nầy, đó là: lửa, khói và lưu huỳnh ra từ miệng ngựa. Vì sức mạnh của ngựa ở trong miệng và đuôi của chúng; đuôi của chúng giống như những đầu của rắn, và chúng được dùng để gây thương tích.

Phần còn lại của loài người, là những người không bị giết bởi những tai nạn nầy, vẫn không ăn năn những công việc của tay họ, cũng không từ bỏ việc thờ lạy các quỷ, các hình tượng bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng đá, bằng gỗ là những hình tượng không thể thấy, nghe hoặc đi được. Họ cũng không ăn năn những tội giết người, tà thuật, gian dâm, trộm cướp của họ.

Bản Dịch Ngữ Căn

1. Và rồi thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất, và chìa khóa của vực sâu được trao cho người. 2. Khi người mở vực sâu, khói từ vực bay lên như khói của một lò lửa lớn; mặt trời và không gian bị u ám bởi khói của vực. 3. Từ trong luồng khói, châu chấu bay ra khắp đất, và chúng được ban cho khả năng giống như khả năng của bò cạp trên đất. 4. Chúng được dặn rằng không được làm hại cỏ trên đất, những vật xanh, hay cây cối, nhưng chỉ làm hại những người không có ấn của Đức Chúa Trời ở trên trán. 5. Chúng không được phép giết chết họ, nhưng hành hạ họ trong năm tháng. Sự đau đớn do chúng gây ra giống như sự đau đớn của người bị bò cạp chích. 6. Trong những ngày đó, người ta sẽ tìm kiếm sự chết nhưng không gặp; họ mong được chết nhưng sự chết tránh xa.

7. Sự xuất hiện của các châu chấu giống như ngựa sẵn sàng cho chiến trận. Trên đầu chúng có những vật giống như những mão miện bằng vàng; mặt của chúng giống như mặt người. 8. Chúng có tóc giống như tóc phụ nữ, và răng như răng sư tử. 9. Chúng có giáp che ngực như giáp bằng sắt; tiếng cánh của chúng giống như tiếng của nhiều chiến xa do ngựa kéo đang xông vào chiến trường. 10. Chúng có đuôi và nọc giống như bò cạp; những đuôi nầy có sức mạnh làm tổn thương người ta trong năm tháng. 11. Chúng có một vua, là sứ giả của vực sâu. Tên trong tiếng Hê-bơ-rơ là A-ba-đôn, và trong tiếng Hy Lạp là A-pô-li-ôn.

12. Khổ nạn thứ nhất đã qua. Kìa, sau những điều nầy còn hai khổ nạn nữa đang đến.

13. Thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe có tiếng từ bốn sừng của bàn thờ bằng vàng ở trước mặt Đức Chúa Trời, 14. nói với thiên sứ thứ sáu đang cầm kèn rằng: Hãy thả bốn thiên sứ đang bị trói tại sông lớn Ơ-phơ-rát ra. 15. Và rồi bốn thiên sứ được thả ra; họ đã chuẩn vị cho giờ, ngày, tháng, năm để giết một phần ba nhân loại.

16. Số kỵ binh của đội quân là hai trăm triệu. Đó là con số của họ mà tôi đã nghe. 17. Trong khải tượng, tôi thấy ngựa và những người cưỡi chúng có giáp che ngực màu lửa, xanh lục và lưu huỳnh. Đầu của ngựa giống như đầu sư tử; miệng chúng phun ra lửa, khói và lưu huỳnh. 18. Một phần ba loài người bị giết vì ba tai nạn nầy, đó là: lửa, khói và lưu huỳnh ra từ miệng ngựa. 19. Vì sức mạnh của ngựa ở trong miệng và đuôi của chúng; đuôi của chúng giống như những đầu của rắn, và chúng được dùng để gây thương tích.

20. Phần còn lại của loài người, là những người không bị giết bởi những tai nạn nầy, vẫn không ăn năn những công việc của tay họ, cũng không từ bỏ việc thờ lạy các quỷ, các hình tượng bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng đá, bằng gỗ là những hình tượng không thể thấy, nghe hoặc đi được. 21. Họ cũng không ăn năn những tội giết người, tà thuật, gian dâm, trộm cướp của họ.

Bản Dịch 1925

1. Vị thiên sứ thứ năm thổi loa, thì tôi thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất, và được ban cho chìa khóa của vực sâu không đáy. 2. Ngôi sao ấy mở vực sâu không đáy ra, có một luồng khói dưới vực bay lên, như khói của lò lửa lớn; mặt trời và không khí đều bị tối tăm bởi luồng khói của vực. 3. Từ luồng khói ấy, có những châu chấu bay ra rải trên mặt đất; và có kẻ ban cho chúng nó quyền giống như bọ cạp ở đất vậy. 4. Có lời truyền cho chúng nó chớ làm hại loài cỏ ở đất, thứ xanh và cây cối nào, nhưng chỉ làm hại những người không có ấn Đức Chúa Trời ở trên trán. 5. Lại cho chúng nó phép, không phải là giết, nhưng là làm khổ những người đó trong năm tháng, và sự làm khổ ấy giống như sự làm khổ khi bọ cạp cắn người ta. 6. Trong những ngày đó, người ta sẽ tìm sự chết, mà không tìm được; họ sẽ ước ao chết đi mà sự chết tránh xa.

7. Những châu chấu đó giống như những ngựa sắm sẵn để đem ra chiến trận: trên đầu nó có như mão triều thiên tợ hồ bằng vàng, và mặt nó như mặt người ta; 8. nó có tóc giống tóc đàn bà, và răng nó như răng sư tử. 9. Nó có giáp như giáp bằng sắt; và tiếng cánh nó như tiếng của nhiều xe có nhiều ngựa kéo chạy ra nơi chiến trường. 10. Đuôi nó có nọc, như bọ cạp, ấy bởi trong những đuôi đó mà chúng nó có quyền hại người ta trong năm tháng. 11. Nó có vua đứng đầu, là sứ giả của vực sâu, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là A-ba-đôn, tiếng Gờ-réc là A-bô-ly-ôn.

12. Nạn thứ nhất đã qua; nay còn hai nạn nữa đến sau nó.

13. Vị thiên sứ thứ sáu thổi loa, thì tôi nghe có tiếng ra từ bốn góc bàn thờ bằng vàng đặt trước mặt Đức Chúa Trời. 14. Tiếng ấy nói cùng vị thiên sứ thứ sáu đang cầm loa rằng: Hãy cổi cho bốn vị thiên sứ bị trói trên bờ sông cái Ơ-phơ-rát. 15. Bốn vị thiên sứ bèn được cổi trói, đã chực sẵn đến giờ, ngày, tháng, và năm ấy, hầu cho tiêu diệt một phần ba loài người.

16. Số binh kỵ mã của đạo quân là hai trăm triệu; số đó tôi đã nghe. 17. Kìa trong sự hiện thấy, tôi thấy những ngựa và kẻ cỡi ra làm sao: những kẻ ấy đều mặc giáp màu lửa, mầu tía, mầu lưu hoàng; đầu ngựa giống như dầu sư tử, và miệng nó có phun lửa, khói và diêm sanh. 18. Một phần ba loài người bị giết vì ba tai nạn đó, là lửa, khói, và diêm sanh ra từ miệng ngựa. 19. Vì quyền phép của những ngựa ấy ở nơi miệng và đuôi nó; những đuôi ấy giống như con rắn, và có đầu, nhờ đó nó làm hại người.

20. Còn những người sót lại, chưa bị các tai nạn đó giết đi, vẫn không ăn năn những công việc bởi tay chúng nó làm cứ thờ lạy ma quỉ cùng thần tượng bằng vàng, bạc, đồng, đã và gỗ, là những tượng không thấy, không nghe, không đi được. 21. Chúng nó cũng không ăn năn những tội giết người, tà thuật, gian dâm, trộm cướp của mình nữa.

Bản Dịch 2011

Tiếng Kèn Thứ Năm

1 Vị thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một ngôi sao từ trời lao xuống đất, và ngôi sao ấy được ban cho chìa khóa của vực thẳm. 2 Ngôi sao ấy mở vực thẳm, khói từ vực thẳm bốc lên cuồn cuộn như khói của một lò lửa lớn; mặt trời và bầu trời bị khói từ vực thẳm che tối. 3 Từ trong luồng khói đó châu chấu bay ra khắp đất, và chúng được ban cho quyền phá hoại như quyền của những bò cạp trên đất. 4 Chúng được lịnh không được làm hại cỏ xanh, các loài thực vật, hay cây cối trên đất, nhưng chỉ làm hại những người không có ấn của Ðức Chúa Trời trên trán. 5 Chúng không được phép giết họ, nhưng chỉ hành hạ họ trong năm tháng, và họ sẽ bị đau đớn như bị bò cạp chích. 6 Trong những ngày ấy người ta sẽ tìm cái chết nhưng tìm không được; họ mong cho được chết, nhưng tử thần đã trốn khỏi họ.

7 Hình dạng những châu chấu ấy giống như những ngựa chiến được chuẩn bị sẵn sàng để ra trận. Trên đầu chúng có vật gì giống như cái mão bằng vàng, và mặt chúng giống như mặt người. 8 Chúng có tóc như tóc phụ nữ, và răng chúng như răng sư tử. 9 Chúng có giáp che ngực cứng như giáp sắt, và âm thanh của cánh chúng như tiếng của nhiều xe chiến mã đang xông vào trận mạc. 10 Chúng có đuôi như đuôi bò cạp với ngòi chích độc trong đuôi ấy, và trong đuôi chúng có chất độc làm người ta đau đớn trong năm tháng. 11 Chúng có một vua lãnh đạo chúng, đó là quỷ sứ của vực thẳm. Tên của nó trong tiếng Hê-bơ-rơ là “A-ba-đôn,” còn tên đó trong tiếng Hy-lạp là “A-pô-ly-ôn.”

12 Cơn khốn thứ nhất đã qua, này, còn hai cơn khốn nữa sắp đến.

Tiếng Kèn Thứ Sáu

13 Vị thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe có tiếng từ bốn sừng của bàn thờ bằng vàng trước mặt Ðức Chúa Trời 14 bảo vị thiên sứ thứ sáu đang có cây kèn rằng, “Hãy thả bốn thiên sứ đang bị trói ở sông lớn Ơ-phơ-rát ra.” 15 Vậy bốn thiên sứ ấy, vốn được chuẩn bị sẵn cho giờ, ngày, tháng, và năm, được thả ra để tiêu diệt một phần ba nhân loại. 16 Số của các kỵ binh là hai trăm triệu; tôi đã nghe được quân số đó của họ.

17 Các chiến mã và các kỵ binh tôi thấy trong khải tượng trông giống như thế này: Họ mặc áo giáp đỏ như lửa, xanh như nước biển, và vàng như lưu huỳnh; đầu các chiến mã giống như đầu sư tử, và miệng chúng phun ra lửa, khói, và lưu huỳnh. 18 Một phần ba nhân loại bị tiêu diệt bằng ba tai họa đó, tức bằng lửa, khói, và lưu huỳnh phun ra từ miệng chúng. 19 Sức mạnh của các chiến mã ấy ở trong miệng và đuôi chúng, vì đuôi chúng giống như rắn độc có đầu; và chúng dùng miệng và đuôi chúng để giết hại.

20 Tuy nhiên nhân loại còn lại, tức những người không bị giết bởi các tai họa ấy, vẫn không chịu ăn năn những việc tay họ làm. Họ vẫn không từ bỏ sự thờ lạy các quỷ và các thần tượng làm bằng vàng, bạc, đồng, đá, và gỗ là những thứ không thể thấy, nghe, và đi. 21 Họ vẫn không ăn năn từ bỏ các tội sát nhân, tà thuật, gian dâm, và trộm cắp của họ.

Tài Liệu

  • Kinh Thánh - Bản Dịch 1926 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
  • Thánh Kinh Lược Khảo - Nhà Xuất Bản Tin Lành Sài Gòn (1970)