Lu-ca: Chương 3
Mục lục
Bản Dịch Việt Ngữ
Chức vụ của Giăng Báp-tít
1. Vào năm thứ mười lăm dưới triều Sê-sa Ti-bê-ri-út - khi Pôn-xơ Phi-lát làm tổng đốc xứ Giu-đê; Hê-rốt làm vua chư hầu tại Ga-li-lê; Phi-líp, em của vua đó, làm vua chư hầu tại Y-tu-rê và vùng Tra-cô-nít; Ly-sa-ni-a làm vua chư hầu tại A-by-len; 2. vào thời An-ne và Cai-phe làm thượng tế - có lời của Đức Chúa Trời đến với Giăng, con trai của Xa-cha-ri, trong đồng hoang. 3. Ông đã đi khắp các vùng phụ cận của Giô-đanh, rao giảng báp-têm về sự ăn năn để được tha tội, 4. như lời đã được chép trong sách Tiên tri Ê-sai: “Có tiếng người kêu vang trong đồng hoang: Hãy chuẩn bị đường cho Chúa, và làm thẳng những đường lối cho Ngài. 5. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải hạ cho thấp; những nơi cong quẹo phải trở thành ngay thẳng, những lối gập ghềnh phải làm cho phẳng; 6. và rồi tất cả loài xác thịt sẽ thấy ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời.”
7. Vì vậy, Giăng nói với đoàn dân đã đến để ông làm báp-têm rằng: “Hỡi dòng dõi rắn độc kia! Ai đã báo cho các người để chạy trốn cơn thịnh nộ sắp đến? 8. Vì vậy, hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn; đừng bắt đầu nói với chính mình rằng: ‘Chúng tôi có tổ phụ là Áp-ra-ham’. Ta nói cùng các ngươi, Đức Chúa Trời có thể dấy lên con cháu cho Áp-ra-ham từ những viên đá nầy. 9. Bây giờ, cái rìu đã đặt vào những gốc cây; vì vậy cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị đốn và ném vào lửa.”
10. Đám đông hỏi ông: “Như vậy chúng tôi phải làm gì?” 11. Ông trả lời cho họ rằng: “Ai có hai áo, hãy chia cho người không có; ai có thức ăn, cũng hãy làm như vậy.” 12. Sau đó cũng có những người thu thuế đến để chịu báp-têm, họ nói với ông: “Thưa thầy! Chúng tôi phải làm gì?” 13. Ông nói với họ: “Đừng thu nhiều hơn mức quy định cho các ngươi.” 14. Sau đó những binh lính cũng hỏi ông: “Còn chúng tôi phải làm gì?” Ông trả lời họ: “Đừng tống tiền hay vu khống, nhưng hãy thỏa lòng với tiền lương của mình.” 15. Sau đó tất cả dân chúng, là những người đang trông đợi, tự hỏi trong lòng của họ rằng: “Không biết Giăng có phải là Đấng Christ hay không?” 16. Giăng đã trả lời với mọi người, và nói: “Thật vậy, ta làm báp-têm cho các ngươi bằng nước; tuy nhiên có một Đấng uy quyền hơn ta đang đến, là Đấng mà ta không xứng đáng để mở quai dép cho Ngài. Ngài sẽ làm báp-têm cho các người bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa; 17. là Đấng có cái nia trong tay của Ngài để rê thật sạch sân lúa của Ngài, và thu lúa vào trong kho của Ngài; nhưng Ngài sẽ đốt rơm rạ trong lửa chẳng hề tắt.”
18. Ông cũng dùng nhiều lời khuyên dạy khác mà rao giảng Phúc Âm cho dân chúng. 19. Hê-rốt, vua chư hầu, bị ông quở trách về việc lấy Hê-rô-đia, là vợ của em trai mình, và tất cả những tội ác mà vua đã làm, 20. rồi thêm vào tất cả những tội đó điều này: Vua đã giam Giăng vào trong ngục.
Đức Chúa Jesus chịu báp-têm
21. Lúc này, khi mọi người đã chịu báp-têm, Đức Chúa Jesus cũng chịu báp-têm. Lúc Ngài đang cầu nguyện, bầu trời đã mở ra, 22. và Đức Thánh Linh ngự xuống trong hình thể giống như một chim bồ câu ngự trên Ngài; và có tiếng phán đến từ trời: “Con là Con yêu dấu của Ta. Ta rất hài lòng về Con!”
Gia phổ của Đức Chúa Jesus
23. Đức Chúa Jesus bắt đầu chức vụ khi Ngài độ ba mươi tuổi. Người ta cho rằng Ngài là con của Giô-sép, ông là con của Hê-li, 24. ông là con của Mát-tát, ông là con của Lê-vi, ông là con của Mên-chi, ông là con của Gia-nê, ông là con của Giô-sép, 25. ông là con của Ma-ta-thia, ông là con của A-mốt, ông là con của Na-hum, ông là con của Ếch-li, ông là con của Na-ghê, 26. ông là con của Ma-át, ông là con của Ma-ta-thia, ông là con của Sê-mê-in, ông là con của Giô-sếch, ông là con của Giô-đa, 27. ông là con của Giô-a-nan, ông là con của Rê-sa, ông là con của Xô-rô-ba-bên, ông là con của Sa-la-thi-ên, ông là con của Nê-ri, 28. ông là con của Mên-chi, ông là con của A-đi, ông là con của Cô-sam, ông là con của Ên-ma-đan, ông là con của Ê-rơ, 29. ông là con của Giô-suê, ông là con của Ê-li-ê-se, ông là con của Giô-rim, ông là con của Mát-thát, ông là con của Lê-vi, 30. ông là con của Si-mê-ôn, ông là con của Giu-đa, ông là con của Giô-sép, ông là con của Giô-nam, ông là con của Ê-li-a-kim, ông là con của Mê-lê-a, 31. ông là con của Men-na, ông là con của Mát-ta-tha, ông là con của Na-than, ông là con của Đa-vít, 32. ông là con của Gie-sê, ông là con của Ô-bết, ông là con của Bô-ô, ông là con của Sa-la, ông là con của Na-ha-sôn, ông là con của A-mi-na-đáp, 33. ông là con của Át-min, ông là con của A-rơ-ni, ông là con của Hết-rôn, ông là con của Phê-rết, ông là con của Giu-đa, 34. ông là con của Gia-cốp, ông là con của Y-sác, ông là con của Áp-ra-ham, ông là con của Tha-rê, ông là con của Na-cô, 35. ông là con của Sê-rúc, ông là con của Rê-hu, ông là con của Bê-léc, ông là con của Hê-be, ông là con của Sa-la, 36. ông là con của Cai-nam, ông là con của A-pác-sát, ông là con của Sem, ông là con của Nô-ê, ông là con của Lê-méc, 37. ông là con của Mê-tu-sê-la, ông là con của Hê-nóc, ông là con của Giê-rệt, ông là con của Ma-ha-la-ên, ông là con của Kê-nan, 38. ông là con của Ê-nót, ông là con của Sết, ông là con của A-đam, ông là con của Đức Chúa Trời.
Bản Dịch Đại Chúng
Chức vụ của Giăng Báp-tít
Vào năm thứ mười lăm dưới triều Sê-sa Ti-bê-ri-út - khi Pôn-xơ Phi-lát làm tổng đốc xứ Giu-đê; Hê-rốt làm vua chư hầu tại Ga-li-lê; Phi-líp, em của vua đó, làm vua chư hầu tại Y-tu-rê và vùng Tra-cô-nít; Ly-sa-ni-a làm vua chư hầu tại A-by-len; vào thời An-ne và Cai-phe làm thượng tế - có lời của Đức Chúa Trời đến với Giăng, con trai của Xa-cha-ri, trong đồng hoang. Ông đã đi khắp các vùng phụ cận của Giô-đanh, rao giảng báp-têm về sự ăn năn để được tha tội, như lời đã được chép trong sách Tiên tri Ê-sai:
“Có tiếng người kêu vang trong đồng hoang: Hãy chuẩn bị đường cho Chúa, và làm thẳng những đường lối cho Ngài. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải hạ cho thấp; những nơi cong quẹo phải trở thành ngay thẳng, những lối gập ghềnh phải làm cho phẳng; và rồi tất cả loài xác thịt sẽ thấy ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời.”
Vì vậy, Giăng nói với đoàn dân đã đến để ông làm báp-têm rằng: “Hỡi dòng dõi rắn độc kia! Ai đã báo cho các người để chạy trốn cơn thịnh nộ sắp đến? Vì vậy, hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn; đừng bắt đầu nói với chính mình rằng: ‘Chúng tôi có tổ phụ là Áp-ra-ham’. Ta nói cùng các ngươi, Đức Chúa Trời có thể dấy lên con cháu cho Áp-ra-ham từ những viên đá nầy. Bây giờ, cái rìu đã đặt vào những gốc cây; vì vậy cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị đốn và ném vào lửa.”
Đám đông hỏi ông: “Như vậy chúng tôi phải làm gì?” Ông trả lời cho họ rằng: “Ai có hai áo, hãy chia cho người không có; ai có thức ăn, cũng hãy làm như vậy.” Sau đó cũng có những người thu thuế đến để chịu báp-têm, họ nói với ông: “Thưa thầy! Chúng tôi phải làm gì?” Ông nói với họ: “Đừng thu nhiều hơn mức quy định cho các ngươi.” Sau đó những binh lính cũng hỏi ông: “Còn chúng tôi phải làm gì?” Ông trả lời họ: “Đừng tống tiền hay vu khống, nhưng hãy thỏa lòng với tiền lương của mình.” Sau đó tất cả dân chúng, là những người đang trông đợi, tự hỏi trong lòng của họ rằng: “Không biết Giăng có phải là Đấng Christ hay không?” Giăng đã trả lời với mọi người, và nói: “Thật vậy, ta làm báp-têm cho các ngươi bằng nước; tuy nhiên có một Đấng uy quyền hơn ta đang đến, là Đấng mà ta không xứng đáng để mở quai dép cho Ngài. Ngài sẽ làm báp-têm cho các người bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa; là Đấng có cái nia trong tay của Ngài để rê thật sạch sân lúa của Ngài, và thu lúa vào trong kho của Ngài; nhưng Ngài sẽ đốt rơm rạ trong lửa chẳng hề tắt.”
Ông cũng dùng nhiều lời khuyên dạy khác mà rao giảng Phúc Âm cho dân chúng. Hê-rốt, vua chư hầu, bị ông quở trách về việc lấy Hê-rô-đia, là vợ của em trai mình, và tất cả những tội ác mà vua đã làm, rồi thêm vào tất cả những tội đó điều này: Vua đã giam Giăng vào trong ngục.
Đức Chúa Jesus chịu báp-têm
Lúc này, khi mọi người đã chịu báp-têm, Đức Chúa Jesus cũng chịu báp-têm. Lúc Ngài đang cầu nguyện, bầu trời đã mở ra, và Đức Thánh Linh ngự xuống trong hình thể giống như một chim bồ câu ngự trên Ngài; và có tiếng phán đến từ trời: “Con là Con yêu dấu của Ta. Ta rất hài lòng về Con!”
Gia phổ của Đức Chúa Jesus
Đức Chúa Jesus bắt đầu chức vụ khi Ngài độ ba mươi tuổi. Người ta cho rằng Ngài là con của Giô-sép, ông là con của Hê-li, ông là con của Mát-tát, ông là con của Lê-vi, ông là con của Mên-chi, ông là con của Gia-nê, ông là con của Giô-sép, ông là con của Ma-ta-thia, ông là con của A-mốt, ông là con của Na-hum, ông là con của Ếch-li, ông là con của Na-ghê, ông là con của Ma-át, ông là con của Ma-ta-thia, ông là con của Sê-mê-in, ông là con của Giô-sếch, ông là con của Giô-đa, ông là con của Giô-a-nan, ông là con của Rê-sa, ông là con của Xô-rô-ba-bên, ông là con của Sa-la-thi-ên, ông là con của Nê-ri, ông là con của Mên-chi, ông là con của A-đi, ông là con của Cô-sam, ông là con của Ên-ma-đan, ông là con của Ê-rơ, ông là con của Giô-suê, ông là con của Ê-li-ê-se, ông là con của Giô-rim, ông là con của Mát-thát, ông là con của Lê-vi, ông là con của Si-mê-ôn, ông là con của Giu-đa, ông là con của Giô-sép, ông là con của Giô-nam, ông là con của Ê-li-a-kim, ông là con của Mê-lê-a, ông là con của Men-na, ông là con của Mát-ta-tha, ông là con của Na-than, ông là con của Đa-vít, ông là con của Gie-sê, ông là con của Ô-bết, ông là con của Bô-ô, ông là con của Sa-la, ông là con của Na-ha-sôn, ông là con của A-mi-na-đáp, ông là con của Át-min, ông là con của A-rơ-ni, ông là con của Hết-rôn, ông là con của Phê-rết, ông là con của Giu-đa, ông là con của Gia-cốp, ông là con của Y-sác, ông là con của Áp-ra-ham, ông là con của Tha-rê, ông là con của Na-cô, ông là con của Sê-rúc, ông là con của Rê-hu, ông là con của Bê-léc, ông là con của Hê-be, ông là con của Sa-la, ông là con của Cai-nam, ông là con của A-pác-sát, ông là con của Sem, ông là con của Nô-ê, ông là con của Lê-méc, ông là con của Mê-tu-sê-la, ông là con của Hê-nóc, ông là con của Giê-rệt, ông là con của Ma-ha-la-ên, ông là con của Kê-nan, ông là con của Ê-nót, ông là con của Sết, ông là con của A-đam, ông là con của Đức Chúa Trời.
Bản Dịch Ngữ Căn
Chức vụ của Giăng Báp-tít
1. Vào năm thứ mười lăm dưới triều Sê-sa Ti-bê-ri-út - khi Pôn-xơ Phi-lát làm tổng đốc xứ Giu-đê; Hê-rốt làm vua chư hầu tại Ga-li-lê; Phi-líp, em của vua đó, làm vua chư hầu tại Y-tu-rê và vùng Tra-cô-nít; Ly-sa-ni-a làm vua chư hầu tại A-by-len; 2. vào thời An-ne và Cai-phe làm thượng tế - có lời của Đức Chúa Trời đến với Giăng, con trai của Xa-cha-ri, trong đồng hoang. 3. Ông đã đi khắp các vùng phụ cận của Giô-đanh, rao giảng báp-têm về sự ăn năn để được tha tội, 4. như lời đã được chép trong sách Tiên tri Ê-sai: “Có tiếng người kêu vang trong đồng hoang: Hãy chuẩn bị đường cho Chúa, và làm thẳng những đường lối cho Ngài. 5. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải hạ cho thấp; những nơi cong quẹo phải trở thành ngay thẳng, những lối gập ghềnh phải làm cho phẳng; 6. và rồi tất cả loài xác thịt sẽ thấy ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời.”
7. Vì vậy, Giăng nói với đoàn dân đã đến để ông làm báp-têm rằng: “Hỡi dòng dõi rắn độc kia! Ai đã báo cho các người để chạy trốn cơn thịnh nộ sắp đến? 8. Vì vậy, hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn; đừng bắt đầu nói với chính mình rằng: ‘Chúng tôi có tổ phụ là Áp-ra-ham’. Ta nói cùng các ngươi, Đức Chúa Trời có thể dấy lên con cháu cho Áp-ra-ham từ những viên đá nầy. 9. Bây giờ, cái rìu đã đặt vào những gốc cây; vì vậy cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị đốn và ném vào lửa.”
10. Đám đông hỏi ông: “Như vậy chúng tôi phải làm gì?” 11. Ông trả lời cho họ rằng: “Ai có hai áo, hãy chia cho người không có; ai có thức ăn, cũng hãy làm như vậy.” 12. Sau đó cũng có những người thu thuế đến để chịu báp-têm, họ nói với ông: “Thưa thầy! Chúng tôi phải làm gì?” 13. Ông nói với họ: “Đừng thu nhiều hơn mức quy định cho các ngươi.” 14. Sau đó những binh lính cũng hỏi ông: “Còn chúng tôi phải làm gì?” Ông trả lời họ: “Đừng tống tiền hay vu khống, nhưng hãy thỏa lòng với tiền lương của mình.” 15. Sau đó tất cả dân chúng, là những người đang trông đợi, tự hỏi trong lòng của họ rằng: “Không biết Giăng có phải là Đấng Christ hay không?” 16. Giăng đã trả lời với mọi người, và nói: “Thật vậy, ta làm báp-têm cho các ngươi bằng nước; tuy nhiên có một Đấng uy quyền hơn ta đang đến, là Đấng mà ta không xứng đáng để mở quai dép cho Ngài. Ngài sẽ làm báp-têm cho các người bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa; 17. là Đấng có cái nia trong tay của Ngài để rê thật sạch sân lúa của Ngài, và thu lúa vào trong kho của Ngài; nhưng Ngài sẽ đốt rơm rạ trong lửa chẳng hề tắt.”
18. Ông cũng dùng nhiều lời khuyên dạy khác mà rao giảng Phúc Âm cho dân chúng. 19. Hê-rốt, vua chư hầu, bị ông quở trách về việc lấy Hê-rô-đia, là vợ của em trai mình, và tất cả những tội ác mà vua đã làm, 20. rồi thêm vào tất cả những tội đó điều này: Vua đã giam Giăng vào trong ngục.
Đức Chúa Jesus chịu báp-têm
21. Lúc này, khi mọi người đã chịu báp-têm, Đức Chúa Jesus cũng chịu báp-têm. Lúc Ngài đang cầu nguyện, bầu trời đã mở ra, 22. và Đức Thánh Linh ngự xuống trong hình thể giống như một chim bồ câu ngự trên Ngài; và có tiếng phán đến từ trời: “Con là Con yêu dấu của Ta. Ta rất hài lòng về Con!”
Gia phổ của Đức Chúa Jesus
23. Đức Chúa Jesus bắt đầu chức vụ khi Ngài độ ba mươi tuổi. Người ta cho rằng Ngài là con của Giô-sép, ông là con của Hê-li, 24. ông là con của Mát-tát, ông là con của Lê-vi, ông là con của Mên-chi, ông là con của Gia-nê, ông là con của Giô-sép, 25. ông là con của Ma-ta-thia, ông là con của A-mốt, ông là con của Na-hum, ông là con của Ếch-li, ông là con của Na-ghê, 26. ông là con của Ma-át, ông là con của Ma-ta-thia, ông là con của Sê-mê-in, ông là con của Giô-sếch, ông là con của Giô-đa, 27. ông là con của Giô-a-nan, ông là con của Rê-sa, ông là con của Xô-rô-ba-bên, ông là con của Sa-la-thi-ên, ông là con của Nê-ri, 28. ông là con của Mên-chi, ông là con của A-đi, ông là con của Cô-sam, ông là con của Ên-ma-đan, ông là con của Ê-rơ, 29. ông là con của Giô-suê, ông là con của Ê-li-ê-se, ông là con của Giô-rim, ông là con của Mát-thát, ông là con của Lê-vi, 30. ông là con của Si-mê-ôn, ông là con của Giu-đa, ông là con của Giô-sép, ông là con của Giô-nam, ông là con của Ê-li-a-kim, ông là con của Mê-lê-a, 31. ông là con của Men-na, ông là con của Mát-ta-tha, ông là con của Na-than, ông là con của Đa-vít, 32. ông là con của Gie-sê, ông là con của Ô-bết, ông là con của Bô-ô, ông là con của Sa-la, ông là con của Na-ha-sôn, ông là con của A-mi-na-đáp, 33. ông là con của Át-min, ông là con của A-rơ-ni, ông là con của Hết-rôn, ông là con của Phê-rết, ông là con của Giu-đa, 34. ông là con của Gia-cốp, ông là con của Y-sác, ông là con của Áp-ra-ham, ông là con của Tha-rê, ông là con của Na-cô, 35. ông là con của Sê-rúc, ông là con của Rê-hu, ông là con của Bê-léc, ông là con của Hê-be, ông là con của Sa-la, 36. ông là con của Cai-nam, ông là con của A-pác-sát, ông là con của Sem, ông là con của Nô-ê, ông là con của Lê-méc, 37. ông là con của Mê-tu-sê-la, ông là con của Hê-nóc, ông là con của Giê-rệt, ông là con của Ma-ha-la-ên, ông là con của Kê-nan, 38. ông là con của Ê-nót, ông là con của Sết, ông là con của A-đam, ông là con của Đức Chúa Trời.
Bản Dịch 1925
1. Năm thứ mười lăm đời Sê-sa Ti-be-rơ, khi Bôn-xơ Phi-lát làm quan tổng đốc xứ Giu-đê, Hê-rốt làm vua chư hầu xứ Ga-li-lê, Phi-líp em vua ấy làm vua chư hầu xứ Y-tu-rê và tỉnh Tra-cô-nít, Ly-sa-ni-a làm vua chư hầu xứ A-by-len, 2. An-ne và Cai-phe làm thầy cả thượng phẩm, thì có lời Đức Chúa Trời truyền cho Giăng, con Xa-cha-ri, ở nơi đồng vắng. 3. Giăng bèn dạo qua hết thảy miền lân cận sông Giô-đanh, giảng dạy phép báp-tem về sự ăn năn để được tha tội, 4. như lời đã chép trong sách đấng tiên tri Ê-sai rằng:
Có tiếng kêu la trong đồng vắng: Hãy dọn đường Chúa, ban bằng các nẻo Ngài. 5. Mọi nơi sũng thấp sẽ lấp cho đầy, Các núi các gò thì bị hạ xuống; Đường quanh quẹo thì làm cho ngay, Đường gập ghềnh thì làm cho bằng; 6. Và mọi loài xác thịt sẽ thấy sự cứu của Đức Chúa Trời.
7. Vậy, Giăng nói cùng đoàn dân đến để chịu mình làm phép báp-tem rằng: Hỡi dòng dõi rắn lục, ai đã dạy các ngươi tránh khỏi cơn thạnh nộ ngày sau? 8. Thế thì, hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn; và đừng tự nói rằng: Áp-ra- ham là tổ phụ chúng ta; vì ta nói cùng các ngươi, Đức Chúa Trời có thể khiến từ những đá nầy sanh ra con cái cho Áp-ra-ham được. 9. Cái búa đã để kề gốc cây; hễ cây nào không sanh trái tốt thì sẽ bị đốn và chụm. 10. Chúng bèn hỏi Giăng rằng: Vậy thì chúng tôi phải làm gì? 11. Người đáp rằng: Ai có hai áo, hãy lấy một cái cho người không có; và ai có đồ ăn cũng nên làm như vậy. 12. Cũng có những người thâu thuế đến để chịu phép báp-tem; họ hỏi rằng: Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? 13. Người nói rằng: Đừng đòi chi ngoài số luật định. 14. Quân lính cũng hỏi rằng: Còn chúng tôi phải làm gì? Người nói rằng: Đừng hà hiếp, đừng phỉnh gạt ai hết, nhưng hãy bằng lòng về lương hướng mình. 15. Bởi dân chúng vẫn trông đợi, và ai nấy đều tự hỏi trong lòng nếu Giăng phải là Đấng Christ chăng, 16. nên Giăng cất tiếng nói cùng mọi người rằng: Phần ta làm phép báp-tem cho các ngươi bằng nước; song có một Đấng quyền phép hơn ta sẽ đến, ta không đáng mở dây giày Ngài. Chính Ngài sẽ làm phép báp-tem cho các ngươi bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa. 17. Tay Ngài sẽ cầm nia mà giê thật sạch sân lúa mình, và thâu lúa mì vào kho; nhưng đốt trấu trong lửa chẳng hề tắt. 18. Trong khi Giăng rao truyền Tin Lành, thì cũng khuyên bảo dân chúng nhiều điều nữa. 19. Song Hê-rốt, vua chư hầu, đã bị Giăng can gián về việc Hê-rô-đia vợ của em mình, cùng về các điều ác vua đã làm, 20. thì lại thêm một điều ác nữa, là bắt Giăng bỏ tù.
21. Vả, khi hết thảy dân chúng đều chịu phép báp-tem, Đức Chúa Jêsus cũng chịu phép báp-tem. Ngài đang cầu nguyện thì trời mở ra, 22. Đức Thánh Linh lấy hình chim bò câu ngự xuống trên Ngài; lại có tiếng từ trên trời phán rằng: Ngươi là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đường.
23. Khi Đức Chúa Jêsus khởi sự làm chức vụ mình thì Ngài có độ ba mươi tuổi. Theo ý người ta tin, thì Ngài là con Giô-sép, Giô-sép con Hê-li, 24. Hê-li con Mát-tát, Mát-tát con Lê-vi, Lê-vi con Mên-chi, Mên-chi con Gia- nê, Gia-nê con Giô-sép, 25. Giô-sép con Ma-ta-thia, Ma-ta-thia con A-mốt, A-mốt con Na-hum, Na-hum con Ếch-li, Ếch-li con Na-ghê, 26. Na-ghê con Ma-át, Ma-át con Ma-ta-thia, Ma-ta-thia con Sê-mê-in, Sê-mê-in con Giô-sếch, Giô-sếch con Giô-đa, 27. Giô-đa con Giô-a-nan, Giô-a-nan, con Rê-sa, Rê-sa con Xô-rô-ba-bên, Xô- rô-ba-bên con Sa-la-thi-ên, Sa-la-thi-ên con Nê-ri, 28. Nê-ri con Mên-chi, Mên-chi con A-đi, A-đi con Cô-sam, Cô-sam con Ên-ma- đan, Ên-ma-đan con Ê-rơ, 29. Ê-rơ con Giê-su, Giê-su con Ê-li-ê-se, Ê-li-ê-se con Giô-rim, Giô-rim con Mát-thát, Mát-thát con Lê-vi, 30. Lê-vi con Si-mê-ôn, Si-mê-ôn con Giu-đa, Giu-đa con Giô-sép, Giô-sép con Giô-nam, Giô-nam con Ê-li-a-kim, Ê-li-a-kim con Mê-lê-a, 31. Mê-lê-a con Men-na, Men-na con Mát-ta-tha, Mát-ta-tha con Na-than, Na- than con Đa-vít, 32. Đa-vít con Gie-sê, Gie-sê con Giô-bết, Giô-bết con Bô-ô, Bô-ô con Sa-la, Sa-la con Na-ách-son, Na-ách son con A-mi-na-đáp, 33. A-mi-na-đáp con Át-min, Át-min con A-rơ-ni, A-rơ-ni con Ếch-rôm, Ếch-rôn con Pha-rê, Pha-rê con Giu-đa, 34. Giu-đa con Gia-cốp, Gia-cốp con Y-sác, Y-sác con Áp-ra-ham, Áp-ra-ham con Tha-rê, Tha-rê con Na-cô, 35. Na-cô con Sê-rúc, Sê-rúc con Ra-gao, Ra-gao con Pha-léc, Pha-léc con Hê- be, Hê-be con Sa-la, 36. Sa-la con Cai-nam, Cai-nam con A-bác-sát, A-bác-sát con Sem, Sem con Nô- ê, Nô-ê con La-méc, 37. La-méc con Ma-tu-sê-la, Ma-tu-sê-la con Hê-nóc, Hê-nóc con Gia-rết, Gia- rết con Mê-lê-lê-ên, Mê-lê-lê-ên con Cai-nam, 38. Cai-nam con Ê-nót, Ê-nót con Sết, Sết con A-đam, A-đam con Đức Chúa Trời.
Bản Dịch 2011
Lời Giảng của Giăng Báp-tít
(Mat 3:1-12; Mác 1:1-8; Gg 1:19-28)
1 Trong năm thứ mười lăm của triều đại Hoàng Ðế Ti-bê-ri-u, khi Pôn-tơ Phi-lát làm tổng trấn miền Giu-đê, Hê-rốt làm vua chư hầu miền Ga-li-lê, Phi-líp anh ông làm vua chư hầu miền I-tu-rê và miền Tra-cô-ni-tít, Ly-sa-ni-a làm vua chư hầu miền A-bi-len, 2 An-nát và Cai-a-pha làm thượng tế, lời của Ðức Chúa Trời đến với Giăng con trai Xa-cha-ri trong đồng hoang. 3 Do đó ông đến khắp miền dọc Sông Giô-đanh rao giảng rằng mọi người phải ăn năn để được tha tội và hãy bày tỏ lòng ăn năn ấy qua phép báp-têm, 4 như có chép trong sách của Tiên Tri Ê-sai,
“Có tiếng kêu lên trong đồng hoang rằng:
‘Hãy chuẩn bị con đường của Chúa;
Hãy làm bằng thẳng các lối đi của Ngài.
5 Mọi thung lũng phải lấp cho đầy;
Mọi núi đồi phải san cho thấp;
Mọi đường cong quẹo phải sửa cho ngay;
Mọi lối gập ghềnh phải ban cho phẳng;
6 Bấy giờ mọi loài xác thịt sẽ thấy ơn cứu rỗi của Ðức Chúa Trời.’”
7 Vậy Giăng nói với đoàn dân kéo ra gặp ông để chịu báp-têm, “Hỡi dòng dõi rắn lục kia, ai đã cảnh cáo các người để chạy trốn cơn thịnh nộ sắp đến? 8 Vậy khá kết quả xứng đáng với sự ăn năn. Ðừng tự nhủ rằng, ‘Chúng tôi đã có Áp-ra-ham là tổ phụ rồi,’ vì tôi nói cho các người biết: Ðức Chúa Trời có thể dấy lên con cháu của Áp-ra-ham từ những viên đá này. 9 Này, cái rìu đã để kề gốc cây. Hễ cây nào không sinh trái tốt sẽ bị đốn và quăng vào lửa.”
10 Dân chúng hỏi ông, “Thế thì chúng tôi phải làm gì?”
11 Ông đáp, “Ai có hai áo hãy chia bớt cho người không áo; tương tự, ai có thực phẩm, hãy chia sớt cho người không có.”
12 Ngay cả những người thu thuế cũng đến chịu báp-têm, họ hỏi ông, “Thưa thầy, chúng tôi phải làm chi?”
13 Ông đáp, “Ðừng thu hơn số đã ấn định.”
14 Các binh lính cũng hỏi ông, “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?”
Ông đáp, “Ðừng tống tiền ai hay cáo gian ai để kiếm tiền, nhưng hãy thỏa lòng với lương bổng của mình.”
15 Lúc ấy người dân có tâm trạng trông đợi, và ai nấy đều thầm nghĩ trong lòng rằng phải chăng Giăng là Ðấng Christ. 16 Giăng tuyên bố và nói với mọi người, “Tôi làm báp-têm cho các người bằng nước, nhưng một Ðấng quyền năng hơn tôi sẽ đến sau tôi; tôi không xứng đáng mở dây giày cho Ngài. Ngài sẽ làm báp-têm cho các người bằng Ðức Thánh Linh và bằng lửa. 17 Tay Ngài sẽ cầm cào lúa làm sạch sân lúa của Ngài; Ngài sẽ thu lúa vào vựa lẫm của Ngài, còn rơm rác, Ngài sẽ đốt trong lửa không hề tắt.”
18 Giăng còn dùng những lời khuyên bảo khác để rao giảng Tin Mừng cho dân. 19 Nhưng Vua Chư Hầu Hê-rốt, người đã bị Giăng quở trách về vụ lấy bà Hê-rô-đia vợ của anh hắn và về những việc ác Hê-rốt đã làm, 20 lại làm thêm một tội ác nữa, đó là bắt Giăng giam vào ngục.
Chúa Chịu Báp-têm
(Mat 3:13-17; Mác 1:9-11)
21 Bấy giờ khi mọi người đến chịu báp-têm, Ðức Chúa Jesus cũng đến chịu báp-têm. Trong khi Ngài cầu nguyện, trời mở ra, 22 Ðức Thánh Linh ngự xuống trên Ngài trong hình dạng giống như một chim bồ câu, và có tiếng từ trời phán rằng, “Con là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn.”
Gia Phả của Ðức Chúa Jesus
(Mat 1:1-17)
23 Ðức Chúa Jesus được chừng ba mươi tuổi khi Ngài bắt đầu thi hành chức vụ. Người ta vẫn nghĩ Ngài là con của Giô-sép, Giô-sép con Hê-li, 24 Hê-li con Ma-thát, Ma-thát con Lê-vi, Lê-vi con Mên-khi, Mên-khi con Gia-nai, Gia-nai con Giô-sép, 25 Giô-sép con Ma-ta-thi-a, Ma-ta-thi-a con A-mốt, A-mốt con Na-hum, Na-hum con Ê-xơ-li, Ê-xơ-li con Nát-gai, 26 Nát-gai con Ma-át, Ma-át con Ma-ta-thi-a, Ma-ta-thi-a con Sê-mê-in, Sê-mê-in con Giô-sếch, Giô-sếch con Giô-đa, 27 Giô-đa con Giô-a-nan, Giô-a-nan con Rê-sa, Rê-sa con Xê-ru-ba-bên, Xê-ru-ba-bên con Sa-la-thi-ên, Sa-la-thi-ên con Nê-ri, 28 Nê-ri con Mên-khi, Mên-khi con A-đi, A-đi con Cô-sam, Cô-sam con Ên-ma-đam, Ên-ma-đam con Ê-rơ, 29 Ê-rơ con Giô-sua, Giô-sua con Ê-li-ê-xe, Ê-li-ê-xe con Giô-rim, Giô-rim con Ma-thát, Ma-thát con Lê-vi, 30 Lê-vi con Si-mê-ôn, Si-mê-ôn con Giu-đa, Giu-đa con Giô-sép, Giô-sép con Giô-nam, Giô-nam con Ê-li-a-kim, Ê-li-a-kim con Mê-lê-a, 31 Mê-lê-a con Mên-na, Mên-na con Ma-ta-tha, Ma-ta-tha con Na-than, Na-than con Ða-vít, 32 Ða-vít con Giê-se, Giê-se con Ô-bết, Ô-bết con Bô-a, Bô-a con Sa-la, Sa-la con Nát-sôn, Nát-sôn con A-mi-na-đáp, 33 A-mi-na-đáp con Át-min, Át-min con A-rơ-ni, A-rơ-ni con Hê-rôn, Hê-rôn con Pa-rê, Pa-rê con Giu-đa, 34 Giu-đa con Gia-cốp, Gia-cốp con I-sác, I-sác con Áp-ra-ham, Áp-ra-ham con Tê-ra, Tê-ra con Na-hô, 35 Na-hô con Sê-rúc, Sê-rúc con Ra-gau, Ra-gau con Pê-léc, Pê-léc con Ê-be, Ê-be con Shê-la, 36 Shê-la con Cai-nan, Cai-nan con Ạc-pác-sát, Ạc-pác-sát con Sem, Sem con Nô-ê, Nô-ê con La-méc, 37 La-méc con Ma-thu-sê-la, Ma-thu-sê-la con Ê-nóc, Ê-nóc con Gia-rết, Gia-rết con Ma-ha-la-lê-ên, Ma-ha-la-lê-ên con Cai-nan, 38 Cai-nan con Ê-nốt, Ê-nốt con Sết, Sết con A-đam, A-đam con Ðức Chúa Trời.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành