Mác: Chương 6
Mục lục
Bản Dịch Việt Ngữ
1. Ngài rời nơi đó và trở về quê hương của mình; các môn đồ của Ngài cùng đi theo Ngài.
2. Đến ngày sa-bát, Ngài bắt đầu dạy trong nhà hội; nhiều người nghe Ngài giảng thì kinh ngạc và nói: “Do đâu người nầy có được những điều nầy? Sự khôn ngoan được ban cho người, và thậm chí những phép lạ do tay người thực hiện, là gì? 3. Không phải người nầy là thợ mộc, con trai của Ma-ri, anh của Gia-cơ, Giô-sê, Giu-đe, và Si-môn hay sao? Không phải các em gái của người đang ở đây với chúng ta hay sao?” Và họ bực dọc với Ngài.
4. Đức Chúa Jesus nói với họ: “Không có tiên tri nào là không được tôn trọng, ngoại trừ tại quê hương của mình, giữa vòng bà con của mình và gia đình của mình.”
5. Tại đó Ngài không thể làm một việc quyền năng nào, ngoại trừ việc Ngài đặt tay trên vài người bệnh và chữa lành. 6. Ngài ngạc nhiên vì sự vô tín của họ.
Và rồi Ngài đến những làng chung quanh và giảng dạy.
7. Ngài gọi mười hai sứ đồ đến gần, và bắt đầu sai họ đi từng đôi; Ngài ban cho họ thẩm quyền trên những tà linh. 8. Ngài truyền cho họ đừng mang gì theo cho cuộc hành trình, ngoại trừ chỉ một cây gậy, không có bánh, không bao bị, cũng không có tiền thắt lưng; 9. nhưng chỉ mang dép, không mặc hai áo. 10. Ngài dặn họ: “Khi các ngươi vào một nhà nào, hãy cứ ở đó cho đến lúc các ngươi ra đi. 11. Nếu có nơi nào người ta không tiếp và cũng không nghe các ngươi thì hãy rời khỏi đó, phủi bụi nơi chân của các ngươi như một bằng chứng nghịch lại họ.”
12. Vì vậy, họ đã đi ra, họ rao giảng rằng mọi người phải ăn năn. 13. Họ đã đuổi nhiều quỷ, xức dầu và chữa lành nhiều người bệnh.
14. Vua Hê-rốt nghe rằng tên của Ngài đã trở thành nổi tiếng. Có người nói đó là Giăng Báp-tít từ cõi chết sống lại nên Ngài mới thực hiện được những việc quyền năng kỳ diệu nầy. 15. Những người khác thì nói Ngài là Ê-li. Một số khác nữa thì nói đó là một tiên tri, giống như một trong những tiên tri.” 16. Khi nghe như vậy, Hê-rốt nói: “Đây chính là Giăng, người mà ta đã chém đầu, sống lại.”
17. Bởi vì chính Hê-rốt đã sai bắt Giăng và xiềng ông trong ngục, vì chuyện của Hê-rô-đia, vợ của Phi-líp, là em của vua, và vua đã cưới nàng. 18. Giăng đã nói với Hê-rốt rằng: “Ngài lấy vợ của em mình là điều trái luật pháp.” 19. Hê-rô-đia giữ lòng hận thù và muốn giết ông, nhưng không thể, 20. bởi vì Hê-rốt sợ Giăng, biết ông là một người công chính và thánh thiện, nên giữ sự an toàn cho ông. Vua thích nghe ông, dù khi nghe, vua thường bối rối.
21. Nhưng một ngày kia, cơ hội đã đến, nhân dịp sinh nhật của mình, Hê-rốt mở tiệc chiêu đãi các đại thần của ông, những tướng lãnh, cùng với những nhân vật quan trọng trong vùng Ga-li-lê; 22. và con gái riêng của Hê-rô-đia đã đến và nhảy múa, làm hài lòng Hê-rốt và khách dự tiệc. Vua đã nói với cô gái: “Hãy xin bất cứ điều gì con muốn, ta sẽ cho con.” 23. Rồi vua lại thề cùng nàng: “Bất kỳ điều gì con xin, ta cũng sẽ cho, dù một nửa vương quốc của ta.” 24. Nàng đi ra và nói với mẹ của mình: “Con nên xin điều gì?” Bà nói: “Cái đầu của Giăng Báp-tít.” 25. Ngay lập tức, nàng vội vàng trở vào và xin nhà vua: “Con muốn ngài cho con cái đầu của Giăng Báp-tít để trên mâm ngay bây giờ.” 26. Vua đau lòng lắm; nhưng vì những lời thề và vì khách dự tiệc, nên vua không muốn thất hứa với nàng. 27. Vua liền sai một đao phủ đi và truyền đem đầu của Giăng đến. 28. Người đó đi, chặt đầu Giăng trong ngục, mang đầu để trên mâm, và trao cho cô gái; cô gái trao nó cho mẹ của mình. 29. Các môn đồ của Giăng nghe tin, đã đến nhận xác của người, và chôn trong mộ.
30. Các sứ đồ họp lại chung quanh Đức Chúa Jesus, và tường trình cho Ngài mọi việc họ đã làm và đã dạy dỗ. 31. Ngài nói với họ: “Các ngươi hãy gác lại chuyện riêng của mình, đến một nơi thanh vắng, và nghỉ ngơi một lúc” - bởi vì họ không có thì giờ để ăn, do những người đến và những người đi quá nhiều. 32. Vì vậy, họ đã dùng thuyền đi đến một nơi thanh vắng.
33. Người ta thấy họ đi, và nhiều người nhận biết; tất cả, từ nhiều thành phố, đã cùng nhau chạy bộ đến đó, và đã đến đó trước họ.
34. Vừa ra khỏi thuyền, Đức Chúa Jesus thấy một đoàn dân rất đông thì cảm thương họ, bởi vì họ như chiên không có người chăn. Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
35. Đến giờ xế chiều, các môn đồ của Ngài đến thưa với Ngài: “Nơi nầy hoang vắng và đã đến giờ xế chiều. 36. Xin cho họ về, để họ đi vào những vùng chung quanh và các làng mạc, để họ có thể mua thức ăn.” 37. Nhưng Ngài trả lời họ: “Chính các ngươi hãy cho họ ăn.” Họ nói với Ngài: “Chúng con phải đi mua đến hai trăm đơ-ni-ê bánh cho họ ăn sao?” 38. Ngài nói với họ: “Hãy đi xem các ngươi có bao nhiêu bánh?” Sau khi xem xét, họ nói: “Năm - và với hai con cá.”
39. Ngài truyền cho họ ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40. Họ ngồi xuống thành từng nhóm, nhóm một trăm, nhóm năm chục. 41. Ngài lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước lên trời, tạ ơn, rồi bẻ bánh, và trao cho các môn đồ của Ngài để phân phát cho dân chúng. Ngài cũng chia hai con cá cho mọi người. 42. Tất cả đã được ăn thỏa thuê. 43. Họ thu lại được mười hai giỏ đầy những mẩu bánh và cá. 44. Số người đã ăn bánh là năm ngàn người.
45. Ngay lập tức, Ngài giục các môn đồ của Ngài vào thuyền và đi trước qua bờ bên kia, đến Bết-sai-đa, trong khi Ngài cho đám đông ra về. 46. Sau khi từ biệt họ, Ngài đi lên núi để cầu nguyện.
47. Tối đến, thuyền ở giữa biển, còn Ngài thì ở một mình trên đất liền. 48. Ngài thấy họ chèo chống vất vả, vì gió ngược với họ. Khoảng canh tư đêm ấy, Ngài bước đi trên mặt biển, đến với họ, và Ngài muốn vượt qua họ. 49. Khi thấy Ngài bước đi trên mặt biển, họ nghĩ đó là ma, nên thét lên. 50. Tất cả đều thấy Ngài và hoảng sợ. Nhưng lập tức, Ngài phán với họ, và nói cùng họ rằng: “Hãy dạn dĩ, Ta đây, đừng sợ!” 51. Rồi Ngài bước lên thuyền với họ, và gió lặng yên. Họ kinh ngạc quá chừng, 52. vì họ không hiểu phép lạ hóa bánh, nhưng cũng vì lòng họ còn cứng cỏi.
53. Khi đã qua đến đất liền, họ đã đến Ghê-nê-xa-rết, và thả neo tại đó. 54. Khi họ ra khỏi thuyền, dân chúng liền nhận ra Ngài, 55. họ chạy khắp vùng thôn quê, rồi họ bắt đầu khiêng những người bệnh nằm trên đệm đến bất kỳ nơi nào họ nghe rằng Ngài đang ở đó. 56. Bất cứ Ngài vào nơi nào – những làng mạc, những thành thị, những cánh đồng, những khu chợ - người ta đều đem đến những người bệnh, và nài xin Ngài cho họ ít ra cũng được chạm vào gấu áo của Ngài; và những ai đã chạm đến Ngài đều được chữa lành.
Bản Dịch Đại Chúng
Ngài rời nơi đó và trở về quê hương của mình; các môn đồ của Ngài cùng đi theo Ngài.
Đến ngày sa-bát, Ngài bắt đầu dạy trong nhà hội; nhiều người nghe Ngài giảng thì kinh ngạc và nói: “Do đâu người nầy có được những điều nầy? Sự khôn ngoan được ban cho người, và thậm chí những phép lạ do tay người thực hiện, là gì? Không phải người nầy làthợ mộc, con trai của Ma-ri, anh của Gia-cơ, Giô-sê, Giu-đe, và Si-môn sao? Không phải các em gái của người đang ở đây với chúng ta hay sao?” Và họ bực dọc với Ngài.
Đức Chúa Jesus nói với họ: “Không có tiên tri nào là không được tôn trọng, ngoại trừ tại quê hương của mình, giữa vòng bà con của mình và gia đình của mình.”
Tại đó Ngài không thể làm một việc quyền năng nào, ngoài trừ việc Ngài đặt tay trên vài người bệnh và chữa lành. 6. Ngài ngạc nhiên vì sự vô tín của họ.
Và rồi Ngài đến những làng chung quanh và giảng dạy.
Ngài gọi mười hai sứ đồ đến gần, và bắt đầu sai họ đi từng đôi; Ngài ban cho họ thẩm quyền trên những tà linh. Ngài truyền cho họ đừng mang gì theo cho cuộc hành trình, ngoại trừ chỉ một cây gậy, không có bánh, không bao bị, cũng không có tiền thắt lưng; nhưng chỉ mang dép, không mặc hai áo. Ngài dặn họ: “Khi các ngươi vào một nhà nào, hãy cứ ở đó cho đến lúc các ngươi ra đi. Nếu có nơi nào người ta không tiếp và cũng không nghe các ngươi thì hãy rời khỏi đó, phủi bụi nơi chân của các ngươi như một bằng chứng nghịch lại họ.”
Vì vậy, họ đã đi ra, họ rao giảng rằng mọi người phải ăn năn. Họ đã đuổi nhiều quỷ, xức dầu và chữa lành nhiều người bệnh.
Vua Hê-rốt nghe rằng tên của Ngài đã trở thành nổi tiếng. Có người nói đó là Giăng Báp-tít từ cõi chết sống lại nên Ngài mới thực hiện được những việc quyền năng kỳ diệu nầy. 1Những người khác thì nói Ngài là Ê-li. Một số khác nữa thì nói đó là một tiên tri, giống như một trong những tiên tri.” Khi nghe như vậy, Hê-rốt nói: “Đây chính là Giăng, người mà ta đã chém đầu, sống lại.”
Bởi vì chính Hê-rốt đã sai bắt Giăng và xiềng ông trong ngục, vì chuyện của Hê-rô-đia, vợ của Phi-líp, là em của vua, và vua đã cưới nàng. 18. Giăng đã nói với Hê-rốt rằng: “Ngài lấy vợ của em mình là điều trái luật pháp.” Hê-rô-đia giữ lòng hận thù và muốn giết ông, nhưng không thể, bởi vì Hê-rốt sợ Giăng, biết ông là một người công chính và thánh thiện, nên giữ sự an toàn cho ông. Vua thích nghe ông, dù khi nghe, vua thường bối rối.
Nhưng một ngày kia, cơ hội đã đến, nhân dịp sinh nhật của mình, Hê-rốt mở tiệc chiêu đãi các đại thần của ông, những tướng lãnh, cùng với những nhân vật quan trọng trong vùng Ga-li-lê; và con gái riêng của Hê-rô-đia đã đến và nhảy múa, làm hài lòng Hê-rốt và khách dự tiệc. Vua đã nói với cô gái: “Hãy xin bất cứ điều gì con muốn, ta sẽ cho con.” Rồi vua lại thề cùng nàng: “Bất kỳ điều gì con xin, ta cũng sẽ cho, dù một nửa vương quốc của ta.” Nàng đi ra và nói với mẹ của mình: “Con nên xin điều gì?” Bà nói: “Cái đầu của Giăng Báp-tít.” Ngay lập tức, nàng vội vàng trở vào và xin nhà vua: “Con muốn ngài cho con cái đầu của Giăng Báp-tít để trên mâm ngay bây giờ.” Vua đau lòng lắm; nhưng vì những lời thề và vì khách dự tiệc, nên vua không muốn thất hứa với nàng. Vua liền sai một đao phủ đi và truyền đem đầu của Giăng đến. Người đó đi, chặt đầu Giăng trong ngục, mang đầu để trên mâm, và trao cho cô gái; cô gái trao nó cho mẹ của mình. Các môn đồ của Giăng nghe tin, đã đến nhận xác của người, và chôn trong mộ.
Các sứ đồ họp lại chung quanh Đức Chúa Jesus, và tường trình cho Ngài mọi việc họ đã làm và đã dạy dỗ. Ngài nói với họ: “Các ngươi hãy gác lại chuyện riêng của mình, đến một nơi thanh vắng, và nghỉ ngơi một lúc” - bởi vì họ không có thì giờ để ăn, do những người đến và những người đi quá nhiều. Vì vậy, họ đã dùng thuyền đi đến một nơi thanh vắng.
Người ta thấy họ đi, và nhiều người nhận biết; tất cả, từ nhiều thành phố, đã cùng nhau chạy bộ đến đó, và đã đến đó trước họ.
Vừa ra khỏi thuyền, Đức Chúa Jesus thấy một đoàn dân rất đông thì cảm thương họ, bởi vì họ như chiên không có người chăn. Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
Đến giờ xế chiều, các môn đồ của Ngài đến thưa với Ngài: “Nơi nầy hoang vắng và đã đến giờ xế chiều. Xin cho họ về, để họ đi vào những vùng chung quanh và các làng mạc, để họ có thể mua thức ăn.” Nhưng Ngài trả lời họ: “Chính các ngươi hãy cho họ ăn.” Họ nói với Ngài: “Chúng con phải đi mua đến hai trăm đơ-ni-ê bánh cho họ ăn sao?” Ngài nói với họ: “Hãy đi xem các ngươi có bao nhiêu bánh?” Sau khi xem xét, họ nói: “Năm cái bánh và hai con cá.”
Ngài truyền cho họ ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống thành từng nhóm, nhóm một trăm, nhóm năm chục. Ngài lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước lên trời, tạ ơn, rồi bẻ bánh, và trao cho các môn đồ của Ngài để phân phát cho dân chúng. Ngài cũng chia hai con cá cho mọi người. Tất cả đã được ăn thỏa thuê. Họ thu lại được mười hai giỏ đầy những mẩu bánh và cá. Số người đã ăn bánh là năm ngàn người.
Ngay lập tức, Ngài giục các môn đồ của Ngài vào thuyền và đi trước qua bờ bên kia, đến Bết-sai-đa, trong khi Ngài cho đám đông ra về. Sau khi từ biệt họ, Ngài đi lên núi để cầu nguyện.
Tối đến, thuyền ở giữa biển, còn Ngài thì ở một mình trên đất liền. Ngài thấy họ chèo chống vất vả, vì gió ngược với họ. Khoảng canh tư đêm ấy, Ngài bước đi trên mặt biển, đến với họ, và Ngài muốn vượt qua họ. Khi thấy Ngài bước đi trên mặt biển, họ nghĩ đó là ma, nên thét lên. Tất cả đều thấy Ngài và hoảng sợ. Nhưng lập tức, Ngài phán với họ, và nói cùng họ rằng: “Hãy dạn dĩ, Ta đây, đừng sợ!” Rồi Ngài bước lên thuyền với họ, và gió lặng yên. Họ kinh ngạc quá chừng, vì họ không hiểu phép lạ hóa bánh, nhưng cũng vì lòng họ còn cứng cỏi.
Khi đã qua đến đất liền, họ đã đến Ghê-nê-xa-rết, và thả neo tại đó. Khi họ ra khỏi thuyền, dân chúng liền nhận ra Ngài, họ chạy khắp vùng thôn quê, rồi họ bắt đầu khiêng những người bệnh nằm trên đệm đến bất kỳ nơi nào họ nghe rằng Ngài đang ở đó. Bất cứ Ngài vào nơi nào – những làng mạc, những thành thị, những cánh đồng, những khu chợ - người ta đều đem đến những người bệnh, và nài xin Ngài cho họ ít ra cũng được chạm vào gấu áo của Ngài; và những ai đã chạm đến Ngài đều được chữa lành.
Bản Dịch Ngữ Căn
1. Ngài rời nơi đó và trở về quê hương của mình; các môn đồ của Ngài cùng đi theo Ngài.
2. Đến ngày sa-bát, Ngài bắt đầu dạy trong nhà hội; nhiều người nghe Ngài giảng thì kinh ngạc và nói: “Do đâu người nầy có được những điều nầy? Sự khôn ngoan được ban cho người, và thậm chí những phép lạ do tay người thực hiện, là gì? 3. Không phải người nầy là thợ mộc, con trai của Ma-ri, anh của Gia-cơ, Giô-sê, Giu-đe, và Si-môn sao? Không phải các em gái của người đang ở đây với chúng ta hay sao?” Và họ bực dọc với Ngài.
4. Đức Chúa Jesus nói với họ: “Không có tiên tri nào là không được tôn trọng, ngoại trừ tại quê hương của mình, giữa vòng bà con của mình và gia đình của mình.”
5. Tại đó Ngài không thể làm một việc quyền năng nào, ngoài trừ việc Ngài đặt tay trên vài người bệnh và chữa lành. 6. Ngài ngạc nhiên vì sự vô tín của họ.
Và rồi Ngài đến những làng chung quanh và giảng dạy.
7. Ngài gọi mười hai sứ đồ đến gần, và bắt đầu sai họ đi từng đôi; Ngài ban cho họ thẩm quyền trên những tà linh. 8. Ngài truyền cho họ đừng mang gì theo cho cuộc hành trình, ngoại trừ chỉ một cây gậy, không có bánh, không bao bị, cũng không có tiền thắt lưng; 9. nhưng chỉ mang dép, không mặc hai áo. 10. Ngài dặn họ: “Khi các ngươi vào một nhà nào, hãy cứ ở đó cho đến lúc các ngươi ra đi. 11. Nếu có nơi nào người ta không tiếp và cũng không nghe các ngươi thì hãy rời khỏi đó, phủi bụi nơi chân của các ngươi như một bằng chứng nghịch lại họ.”
12. Vì vậy, họ đã đi ra, họ rao giảng rằng mọi người phải ăn năn. 13. Họ đã đuổi nhiều quỷ, xức dầu và chữa lành nhiều người bệnh.
14. Vua Hê-rốt nghe rằng tên của Ngài đã trở thành nổi tiếng. Có người nói đó là Giăng Báp-tít từ cõi chết sống lại nên Ngài mới thực hiện được những việc quyền năng kỳ diệu nầy. 15. Những người khác thì nói Ngài là Ê-li. Một số khác nữa thì nói đó là một tiên tri, giống như một trong những tiên tri.” 16. Khi nghe như vậy, Hê-rốt nói: “Đây chính là Giăng, người mà ta đã chém đầu, sống lại.”
17. Bởi vì chính Hê-rốt đã sai bắt Giăng và xiềng ông trong ngục, vì chuyện của Hê-rô-đia, vợ của Phi-líp, là em của vua, và vua đã cưới nàng. 18. Giăng đã nói với Hê-rốt rằng: “Ngài lấy vợ của em mình là điều trái luật pháp.” 19. Hê-rô-đia giữ lòng hận thù và muốn giết ông, nhưng không thể, 20. bởi vì Hê-rốt sợ Giăng, biết ông là một người công chính và thánh thiện, nên giữ sự an toàn cho ông. Vua thích nghe ông, dù khi nghe, vua thường bối rối.
21. Nhưng một ngày kia, cơ hội đã đến, nhân dịp sinh nhật của mình, Hê-rốt mở tiệc chiêu đãi các đại thần của ông, những tướng lãnh, cùng với những nhân vật quan trọng trong vùng Ga-li-lê; 22. và con gái riêng của Hê-rô-đia đã đến và nhảy múa, làm hài lòng Hê-rốt và khách dự tiệc. Vua đã nói với cô gái: “Hãy xin bất cứ điều gì con muốn, ta sẽ cho con.” 23. Rồi vua lại thề cùng nàng: “Bất kỳ điều gì con xin, ta cũng sẽ cho, dù một nửa vương quốc của ta.” 24. Nàng đi ra và nói với mẹ của mình: “Con nên xin điều gì?” Bà nói: “Cái đầu của Giăng Báp-tít.” 25. Ngay lập tức, nàng vội vàng trở vào và xin nhà vua: “Con muốn ngài cho con cái đầu của Giăng Báp-tít để trên mâm ngay bây giờ.” 26. Vua đau lòng lắm; nhưng vì những lời thề và vì khách dự tiệc, nên vua không muốn thất hứa với nàng. 27. Vua liền sai một đao phủ đi và truyền đem đầu của Giăng đến. 28. Người đó đi, chặt đầu Giăng trong ngục, mang đầu để trên mâm, và trao cho cô gái; cô gái trao nó cho mẹ của mình. 29. Các môn đồ của Giăng nghe tin, đã đến nhận xác của người, và chôn trong mộ.
30. Các sứ đồ họp lại chung quanh Đức Chúa Jesus, và tường trình cho Ngài mọi việc họ đã làm và đã dạy dỗ. 31. Ngài nói với họ: “Các ngươi hãy gác lại chuyện riêng của mình, đến một nơi thanh vắng, và nghỉ ngơi một lúc” - bởi vì họ không có thì giờ để ăn, do những người đến và những người đi quá nhiều. 32. Vì vậy, họ đã dùng thuyền đi đến một nơi thanh vắng.
33. Người ta thấy họ đi, và nhiều người nhận biết; tất cả, từ nhiều thành phố, đã cùng nhau chạy bộ đến đó, và đã đến đó trước họ.
34. Vừa ra khỏi thuyền, Đức Chúa Jesus thấy một đoàn dân rất đông thì cảm thương họ, bởi vì họ như chiên không có người chăn. Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
35. Đến giờ xế chiều, các môn đồ của Ngài đến thưa với Ngài: “Nơi nầy hoang vắng và đã đến giờ xế chiều. 36. Xin cho họ về, để họ đi vào những vùng chung quanh và các làng mạc, để họ có thể mua thức ăn.” 37. Nhưng Ngài trả lời họ: “Chính các ngươi hãy cho họ ăn.” Họ nói với Ngài: “Chúng con phải đi mua đến hai trăm đơ-ni-ê bánh cho họ ăn sao?” 38. Ngài nói với họ: “Hãy đi xem các ngươi có bao nhiêu bánh?” Sau khi xem xét, họ nói: “Năm - và với hai con cá.”
39. Ngài truyền cho họ ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40. Họ ngồi xuống thành từng nhóm, nhóm một trăm, nhóm năm chục. 41. Ngài lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước lên trời, tạ ơn, rồi bẻ bánh, và trao cho các môn đồ của Ngài để phân phát cho dân chúng. Ngài cũng chia hai con cá cho mọi người. 42. Tất cả đã được ăn thỏa thuê. 43. Họ thu lại được mười hai giỏ đầy những mẩu bánh và cá. 44. Số người đã ăn bánh là năm ngàn người.
45. Ngay lập tức, Ngài giục các môn đồ của Ngài vào thuyền và đi trước qua bờ bên kia, đến Bết-sai-đa, trong khi Ngài cho đám đông ra về. 46. Sau khi từ biệt họ, Ngài đi lên núi để cầu nguyện.
47. Tối đến, thuyền ở giữa biển, còn Ngài thì ở một mình trên đất liền. 48. Ngài thấy họ chèo chống vất vả, vì gió ngược với họ. Khoảng canh tư đêm ấy, Ngài bước đi trên mặt biển, đến với họ, và Ngài muốn vượt qua họ. 49. Khi thấy Ngài bước đi trên mặt biển, họ nghĩ đó là ma, nên thét lên. 50. Tất cả đều thấy Ngài và hoảng sợ. Nhưng lập tức, Ngài phán với họ, và nói cùng họ rằng: “Hãy dạn dĩ, Ta đây, đừng sợ!” 51. Rồi Ngài bước lên thuyền với họ, và gió lặng yên. Họ kinh ngạc quá chừng, 52. vì họ không hiểu phép lạ hóa bánh, nhưng cũng vì lòng họ còn cứng cỏi.
53. Khi đã qua đến đất liền, họ đã đến Ghê-nê-xa-rết, và thả neo tại đó. 54. Khi họ ra khỏi thuyền, dân chúng liền nhận ra Ngài, 55. họ chạy khắp vùng thôn quê, rồi họ bắt đầu khiêng những người bệnh nằm trên đệm đến bất kỳ nơi nào họ nghe rằng Ngài đang ở đó. 56. Bất cứ Ngài vào nơi nào – những làng mạc, những thành thị, những cánh đồng, những khu chợ - người ta đều đem đến những người bệnh, và nài xin Ngài cho họ ít ra cũng được chạm vào gấu áo của Ngài; và những ai đã chạm đến Ngài đều được chữa lành.
Bản Dịch 1925
1. Đức Chúa Jêsus đi khỏi đó, đến quê hương mình, có các môn đồ cùng đi theo. 2. Đến ngày Sa-bát, Ngài bắt đầu dạy dỗ trong nhà hội; thiên hạ nghe Ngài, lấy làm lạ mà nói rằng: Người bởi đâu được những điều nầy? Sự khôn sáng mà người được ban cho là gì, và thể nào tay người làm được những phép lạ dường ấy? 3. Có phải người là thợ mộc, con trai Ma-ri, anh em với Gia-cơ, Giô-sê, Giu-đê, và Si-môn chăng? Chị em người há chẳng phải ở giữa chúng ta đây ư? Chúng bèn vấp phạm vì cớ Ngài. 4. Song Đức Chúa Jêsus phán cùng họ rằng: Đấng tiên tri chỉ bị quê hương mình, bà con mình và trong nhà mình khinh dể mà thôi. 5. Ở đó, Ngài không làm phép lạ nào được, chỉ đặt tay chữa lành một vài người đau ốm; 6. và Ngài lấy làm lạ vì chúng chẳng tin.
Rồi Ngài đi khắp các làng gần đó mà giảng dạy.
7. Ngài bèn kêu mười hai sứ đồ, bắt đầu sai đi từng đôi, ban quyền phép trừ tà ma. 8. Ngài truyền cho sứ đồ đi đường đừng đem chi theo hết, hoặc bánh, hoặc bao, hoặc tiền bạc trong dây lưng, chỉ đem một cây gậy mà thôi; 9. chỉ mang dép, đừng mặc hai áo.
10. Ngài phán cùng sứ đồ rằng: Hễ nhà nào các ngươi sẽ vào, hãy cứ ở đó, cho đến khi đi. 11. Nếu có chỗ nào, người ta không chịu tiếp các ngươi, và cũng không nghe các ngươi nữa, thì hãy đi khỏi đó, và phủi bụi đã dính chân mình, để làm chứng cho họ.
12. Vậy, các sứ đồ đi ra, giảng cho người ta phải ăn năn; 13. đuổi nhiều ma quỉ, xức dầu cho nhiều kẻ bịnh và chữa cho được lành.
14. Vả, vua Hê-rốt nghe nói về Đức Chúa Jêsus (vì danh tiếng Ngài đã trở nên lừng lẫy), thì nói rằng: Giăng, là người làm phép báp-tem, đã từ kẻ chết sống lại; cho nên tự người làm ra các phép lạ. 15. Người thì nói: Ấy là Ê-li; kẻ thì nói: Ấy là đấng tiên tri, như một trong các đấng tiên tri đời xưa. 16. Nhưng Hê-rốt nghe vậy, thì nói rằng: Ấy là Giăng mà ta đã truyền chém, người đã sống lại.
17. Số là, Hê-rốt đã sai người bắt Giăng, và truyền xiềng lại cầm trong ngục, bởi cớ Hê-rô-đia, vợ Phi-líp em vua, vì vua đã cưới nàng, 18. và Giăng có can vua rằng: Vua không nên lấy vợ em mình. 19. Nhân đó, Hê-rô-đia căm Giăng, muốn giết đi. 20. Nhưng không thể giết, vì Hê-rốt sợ Giăng, biết là một người công bình và thánh. Vua vẫn gìn giữ người, khi nghe lời người rồi, lòng hằng bối rối, mà vua bằng lòng nghe.
21. Nhưng, vừa gặp dịp tiện, là ngày sanh nhựt Hê-rốt, vua đãi tiệc các quan lớn trong triều, các quan võ, cùng các người tôn trưởng trong xứ Ga-li-lê. 22. Chính con gái Hê-rô-đia vào, nhảy múa, đẹp lòng Hê-rốt và các ngươi dự tiệc nữa. Vua nói cùng người con gái ấy rằng: Hãy xin ta điều chi ngươi muốn, ta sẽ cho. 23. Vua lại thề cùng nàng rằng: Bất kỳ ngươi xin điều chi, ta cũng sẽ cho, dầu xin phân nửa nước ta cũng vậy. 24. Nàng ra khỏi đó, nói với mẹ rằng: Tôi nên xin điều chi? Mẹ rằng: Cái đầu của Giăng Báp-tít. 25. Tức thì nàng vội trở vào nơi vua mà xin rằng: Tôi muốn vua lập tức cho tôi cái đầu Giăng Báp-tít để trên mâm. 26. Vua lấy làm buồn rầu lắm; nhưng vì cớ lời thề mình và khách dự yến, thì không muốn từ chối nàng. 27. Vua liền sai một người lính thị vệ truyền đem đầu Giăng đến. 28. Người ấy đi chém Giăng trong ngục; rồi để đầu trên mâm đem cho người con gái, và người con gái đem cho mẹ mình. 29. Môn đồ Giăng nghe tin, đến lấy xác người chôn trong mả.
30. Các sứ đồ nhóm lại cùng Đức Chúa Jêsus, thuật cho Ngài mọi điều mình đã làm và dạy. 31. Ngài phán cùng sứ đồ rằng: Hãy đi tẻ ra trong nơi vắng vẻ, nghỉ ngơi một chút. Vì có kẻ đi người lại đông lắm, đến nỗi Ngài và sứ đồ không có thì giờ mà ăn. 32. Vậy, Ngài và sứ đồ xuống thuyền đặng đi tẻ ra trong nơi vắng vẻ. 33. Nhưng nhiều người thấy đi, thì nhìn biết; dân chúng từ khắp các thành đều chạy bộ đến nơi Chúa cùng sứ đồ vừa đi, và đã tới đó trước.
34. Bấy giờ Đức Chúa Jêsus ở thuyền bước ra, thấy đoàn dân đông lắm, thì Ngài động lòng thương xót đến, vì như chiên không có người chăn; Ngài bèn khởi sự dạy dỗ họ nhiều điều. 35. Trời đã chiều, môn đồ tới gần Ngài mà thưa rằng: Chỗ nầy là vắng vẻ, và trời đã chiều rồi; 36. xin cho dân chúng về, để họ đi các nơi nhà quê và các làng gần đây đặng mua đồ ăn. 37. Ngài đáp rằng: Chính các ngươi phải cho họ ăn. Môn đồ thưa rằng: chúng tôi sẽ đi mua đến hai trăm đơ-ni-ê bánh để cho họ ăn hay sao? 38. Ngài hỏi rằng: Các ngươi có bao nhiêu bánh? Hãy đi xem thử. Môn đồ xem xét rồi, thưa rằng: Năm cái bánh và hai con cá. 39. Ngài bèn truyền cho môn đồ biểu chúng ngồi xuống hết thảy từng chòm trên cỏ xanh. 40. Chúng ngồi xuống từng hàng, hàng thì một trăm, hàng thì năm chục. 41. Đức Chúa Jêsus lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, rồi bẻ bánh ra mà trao cho môn đồ, đặng phát cho đoàn dân; lại cũng chia hai con cá cho họ nữa. 42. Ai nấy ăn no nê rồi; 43. người ta lượm được mười hai giỏ đầy những miếng bánh và cá còn thừa lại. 44. Vả, số những kẻ đã ăn chừng năm ngàn người.
45. Rồi Ngài liền giục môn đồ vào thuyền, qua bờ bên kia trước mình, hướng đến thành Bết-sai-đa, trong khi Ngài cho dân chúng về. 46. Ngài lìa khỏi chúng rồi, thì lên núi mà cầu nguyện.
47. Đến tối, chiếc thuyền đang ở giữa biển, còn Ngài thì ở một mình trên đất. 48. Ngài thấy môn đồ chèo khó nhọc lắm, vì gió ngược. Lối canh tư đêm ấy, Ngài đi bộ trên biển mà đến cùng môn đồ; và muốn đi trước. 49. Môn đồ thấy Ngài đi bộ trên mặt biển ngỡ là ma, nên la lên; 50. vì ai nấy đều thấy Ngài và sợ hoảng. nhưng Ngài liền nói chuyện với môn đồ và phán rằng: Hãy yên lòng, ta đây đừng sợ chi. 51. Ngài bèn bước lên thuyền với môn đồ, thì gió lặng. Môn đồ càng lấy làm lạ hơn nữa; 52. vì chẳng hiểu phép lạ về mấy cái bánh, bởi lòng cứng cỏi.
53. Khi Ngài và môn đồ đã qua khỏi biển, đến xứ Ghê-nê-xa-rết, thì ghé thuyền vào bờ. 54. Vừa ở trong thuyền bước ra, có dân chúng nhận biết Ngài, 55. chạy khắp cả miền đó, khiêng những người đau nằm trên giường, hễ nghe Ngài ở đâu thì đem đến đó. 56. Ngài đến nơi nào, hoặc làng, thành, hay chốn nhà quê, người ta đem người đau để tại các chợ, và xin Ngài cho phép mình ít nữa được rờ đến trôn áo Ngài; những kẻ đã rờ đều được lành bịnh cả.
Bản Dịch 2011
Chúa Bị Khước Từ ở Na-xa-rét
(Mat 13:53-58; Lu 4:16-30)
1 Ngài rời nơi đó trở về thị trấn quê hương của Ngài, có các môn đồ Ngài đi theo. 2 Ðến ngày Sa-bát, Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe đã ngạc nhiên và nói, “Do đâu người này có được những điều ấy? Người này được ban cho sự khôn ngoan gì thế? Làm sao tay người này có thể làm được những phép lạ như thế? 3 Ông ấy chẳng phải là người thợ mộc con trai của Ma-ry và là anh của Gia-cơ, Giô-sê, Giu-đa, và Si-môn sao? Chẳng phải các em gái của ông ấy đang sống giữa chúng ta sao?” Họ khó có thể chấp nhận Ngài.
4 Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Một tiên tri không thiếu sự tôn trọng, ngoại trừ ở quê hương mình, giữa vòng bà con mình, và trong gia đình mình.” 5 Ngài không làm những việc quyền năng ở đó, ngoại trừ đặt tay trên vài người bịnh và chữa lành họ. 6 Ngài lấy làm lạ vì lòng vô tín của họ. Sau đó Ngài đến các làng quanh vùng để giảng dạy.
Chúa Sai Mười Hai Sứ Ðồ Ra Ði
(Mat 10:5-15; Lu 9:1-6)
7 Ngài gọi mười hai sứ đồ đến và bắt đầu sai họ đi ra từng đôi một. Ngài ban cho họ quyền năng trên các tà linh ô uế. 8 Ngài bảo họ đừng đem gì theo cho cuộc hành trình, ngoại trừ một cây gậy; không bánh, không túi đi đường, không tiền bạc trong thắt lưng, 9 chỉ mang một đôi giày, và không mặc hai chiếc áo. 10 Ngài dặn họ, “Khi các ngươi được nhà nào tiếp, hãy ở đó cho đến khi rời nơi ấy. 11 Nơi nào không hoan nghinh các ngươi hoặc từ chối nghe lời các ngươi, khi rời nơi đó hãy phủi bụi đã dính dưới chân các ngươi để làm chứng nghịch lại họ.”
12 Vậy các môn đồ ra đi rao giảng rằng mọi người phải ăn năn. 13 Họ đuổi trừ nhiều quỷ, xức dầu trên nhiều người bịnh, và chữa lành những người ấy.
Giăng Báp-tít Qua Ðời
(Mat 14:1-12; Lu 9:7-9)
14 Vua Hê-rốt được báo cáo việc ấy, vì danh tiếng của Ngài đã vang lừng khắp nơi. Có người tâu rằng, “Ấy là Giăng Báp-tít đã từ cõi chết sống lại nên mới có thể làm những phép lạ như thế.” 15 Nhưng những người khác bảo, “Ấy là Ê-li.” Những người khác nữa lại nói, “Ấy là một đấng tiên tri như các đấng tiên tri thời xưa.” 16 Nhưng khi nghe thế Hê-rốt nói, “Giăng, người ta đã chặt đầu, đã sống lại đó.”
17 Số là chính Hê-rốt đã sai người bắt Giăng đem xiềng trong ngục, vì vụ Hê-rô-đia vợ của Phi-líp em trai ông, bởi ông đã lấy bà ấy làm vợ. 18 Vì Giăng đã nói với Hê-rốt, “Ngài lấy vợ của em trai ngài là điều không hợp với đạo lý.” 19 Do đó bà Hê-rô-đia rất căm ghét Giăng và tìm cách giết ông, nhưng bà không thể thực hiện được, 20 vì Hê-rốt sợ Giăng. Ông biết Giăng là một người ngay lành và thánh thiện, nên ông bảo vệ Giăng. Mỗi lần được nghe Giăng nhắc nhở, ông rất áy náy, dầu vậy, ông vẫn thích nghe Giăng khuyên bảo.
21 Nhưng một ngày kia, cơ hội đã đến với bà, khi Hê-rốt tổ chức một dạ tiệc để mừng sinh nhật của ông và mời các triều thần, các tướng lãnh, và những người quyền quý trong miền Ga-li-lê đến dự. 22 Con gái của bà Hê-rô-đia vào và nhảy múa khiến cho Hê-rốt và quan khách dự tiệc mê mẩn tâm thần. Vua nói với cô gái ấy, “Hãy xin ta bất cứ điều gì ngươi muốn, ta sẽ ban cho.” 23 Ông lại long trọng thề với nàng, “Bất cứ điều gì ngươi xin, ta sẽ ban cho, dầu đến nửa nước cũng được.”
24 Cô ấy đi ra hỏi mẹ nàng, “Con nên xin gì?”
Bà ấy bảo, “Cái đầu của Giăng Báp-tít.”
25 Cô ấy liền vội vàng đi vào và tâu với vua, “Tiện nữ muốn bệ hạ cho tiện nữ cái đầu của Giăng Báp-tít để trên mâm ngay bây giờ.” 26 Vua rất ân hận, nhưng vì ông đã lỡ thề trước mặt các quan khách, ông không thể từ chối lời yêu cầu của nàng. 27 Vua liền sai một đao phủ đi và truyền đem đầu của Giăng đến. Viên đao phủ đi, chặt đầu Giăng trong ngục, 28 bưng đầu Giăng trên một cái mâm, và đem đến cô gái; cô gái bưng mâm đó đến mẹ cô. 29 Nghe tin ấy, các môn đồ của Giăng đến, lấy xác ông đem đi, và chôn trong một ngôi mộ.
Chúa Hóa Bánh cho Năm Ngàn Người Ăn
(Mat 14:13-21; Lu 9:10-17; Gg 6:1-14)
30 Các sứ đồ tụ về quanh Ðức Chúa Jesus và tường trình với Ngài mọi điều họ đã làm và đã dạy. 31 Ngài nói với họ, “Chính các ngươi hãy lánh vào một nơi vắng vẻ để nghỉ một lúc.” Vì có rất nhiều người tới lui đến nỗi họ không có thì giờ để ăn. 32 Vậy họ xuống thuyền và chèo đến một nơi hoang vắng. 33 Nhưng khi dân chúng thấy họ chèo thuyền đi và đoán biết nơi nào họ sẽ đến, nhiều người từ các thành đã chạy bộ đến đó trước họ.
34 Vì thế vừa ra khỏi thuyền, Ngài thấy một đoàn dân rất đông đang đợi sẵn. Ngài động lòng thương xót họ, vì họ như đàn chiên không có người chăn. Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. 35 Khi ấy trời đã khá xế chiều, các môn đồ đến thưa với Ngài, “Nơi đây thật hoang vắng, và trời cũng đã quá xế chiều, 36 xin Thầy cho họ giải tán để họ có thể vào các thôn xóm và làng mạc quanh đây mua thức ăn cho họ.”
37 Ngài trả lời họ, “Chính các ngươi phải cho họ ăn.”
Họ đáp, “Chúng con phải đi và mua hai trăm đơ-na-ri tiền bánh cho họ ăn sao?
38 Ngài hỏi họ, “Các ngươi có bao nhiêu bánh? Hãy đi và xem thử coi.”
Khi biết được rồi họ nói, “Thưa có năm cái bánh và hai con cá.”
39 Ngài truyền cho họ bảo mọi người ngồi xuống thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Vậy họ ngồi xuống thành những nhóm một trăm người hoặc năm mươi người. 41 Ðoạn Ngài cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ bánh ra, và trao cho các môn đồ để họ phát cho dân. Ngài cũng phát hai con cá cho mọi người. 42 Ai nấy đều ăn và được no nê. 43 Họ gom lại được mười hai giỏ đầy bánh vụn và cá dư. 44 Số người ăn bánh là năm ngàn đàn ông.
Chúa Ði Bộ Trên Mặt Nước
(Mat 14:22-33; Gg 6:15-21)
45 Liền sau đó Ngài bảo các môn đồ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, tức về hướng Thành Bết-sai-đa, trong khi Ngài ở lại để giải tán đám đông. 46 Sau khi tiễn chào họ, Ngài lên núi để cầu nguyện. 47 Tối đến thuyền đã ra giữa biển, còn Ngài đang ở trên đất một mình. 48 Ngài thấy các môn đồ chèo chống vất vả vì phải đương đầu với gió ngược; khoảng canh tư đêm ấy Ngài đi bộ trên mặt biển đến với họ, và dường như Ngài muốn qua mặt họ. 49 Khi thấy Ngài đi bộ trên mặt biển, họ tưởng là ma, nên la thét lên, 50 vì tất cả họ đều thấy Ngài và cực kỳ sợ hãi. Nhưng ngay lập tức Ngài bảo họ, “Hãy yên lòng, Ta đây, đừng sợ.”
51 Ngài bước lên thuyền với họ, và gió yên biển lặng. Các môn đồ vô cùng kinh ngạc; 52 số là họ vẫn chưa hiểu nổi phép lạ hóa bánh ra nhiều vừa rồi, vì lòng họ vẫn còn cứng cỏi.
Chúa Chữa Bịnh ở Ghê-nê-sa-rết
(Mat 14:34-36)
53 Khi họ đã qua bên kia biển, họ cho thuyền cập vào bờ ở Ghê-nê-sa-rết và thả neo tại đó. 54 Vừa khi họ ra khỏi thuyền, dân địa phương liền nhận ra Ngài. 55 Họ chạy đi báo tin khắp miền đó, và người ta bắt đầu khiêng những người bịnh nằm trên cáng đến với Ngài. Hễ họ nghe Ngài ở đâu, họ khiêng các bịnh nhân đến đó. 56 Bất cứ Ngài vào các làng mạc, thị trấn, hay thôn xóm nào, người ta đem những người đau yếu bịnh tật đến chợ ở nơi đó và xin Ngài cho họ được chạm vào viền áo Ngài. Tất cả ai chạm đến Ngài đều được chữa lành.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành