Đa-ni-ên: Chương 9

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB27C009)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch Việt Ngữ

1. Vào năm thứ nhất khi Đa-ri-út, con trai của A-suê-ru, thuộc dòng giống người Mê-đi, được lập lên làm vua cai trị vương quốc Canh-đê; 2. trong năm thứ nhất của triều vua ấy, tôi, Đa-ni-ên, tìm hiểu trong các sách về số năm phải trải qua, theo lời Đức Giê-hô-va đã phán với Tiên tri Giê-rê-mi để hoàn tất cảnh điêu tàn của Giê-ru-sa-lem, là bảy mươi năm.

3. Tôi hướng mặt về Chúa là Đức Chúa Trời, tìm kiếm Ngài qua lời cầu nguyện, nài xin cùng với sự kiêng ăn, mặc vải thô và tro. 4. Tôi đã cầu nguyện cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời và xưng tội rằng:

Lạy Chúa là Đức Chúa Trời cao cả và đáng kính sợ, là Đấng giữ giao ước và tình thương của Ngài đối với những người yêu mến Ngài và tuân giữ điều răn của Ngài. 5. Chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác, đã hành động xấu xa và phản nghịch, thậm chí đã lìa bỏ điều răn và luật lệ của Ngài. 6. Chúng con đã không nghe những đầy tớ của Ngài là các tiên tri, là những người đã nhân danh Ngài nói với các vua, các lãnh đạo, các tổ phụ của chúng con, và tất cả dân trong xứ.

7. Lạy Chúa! Sự công chính thuộc về Ngài, còn sự hổ mặt thuộc về chúng con như ngày nay - thuộc về dân Do Thái, dân cư Giê-ru-sa-lem, tất cả Y-sơ-ra-ên, những người ở gần cũng như những kẻ ở xa, trong tất cả các quốc gia mà Ngài đã đuổi họ đến do những bất trung mà họ đã phạm cùng Ngài. 8. Đức Giê-hô-va ôi! Sự hổ mặt thuộc về chúng con, thuộc về các vua, các lãnh đạo, và các tổ phụ của chúng con, bởi vì chúng con đã phạm tội cùng Ngài. 9. Sự thương xót và tha thứ thuộc về Chúa là Đức Chúa Trời của chúng con, dù rằng chúng con đã phản loạn cùng Ngài.

10. Chúng con đã không vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con, để sống trong luật pháp mà Ngài đã đặt trước chúng con bởi các đầy tớ của Ngài là những tiên tri. 11. Thật vậy, tất cả Y-sơ-ra-ên đã vi phạm luật pháp của Ngài, đã lìa bỏ và không vâng theo tiếng của Ngài. Vì vậy, những lời nguyền rủa và thề nguyện được chép trong luật pháp của Môi-se, là đầy tớ của Đức Chúa Trời, đã đổ trên chúng con bởi vì chúng con đã phạm tội cùng Ngài. 12. Ngài đã xác nhận những lời Ngài đã phán chống lại chúng con, chống lại các thẩm phán của chúng con - là những người đã xét xử chúng con để đem lại tai họa quá lớn đổ trên chúng con, đến nỗi trong cả thiên hạ chưa từng có tai họa nào giống như tai họa đã giáng trên Giê-ru-sa-lem.

13. Tất cả tai họa nầy đã giáng trên chúng con đúng như đã được chép trong luật pháp của Môi-se, dầu vậy, chúng con vẫn không cầu xin trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con để chúng con từ bỏ sự gian ác của mình và hiểu biết chân lý của Ngài. 14. Vì vậy Đức Giê-hô-va đã giáng tai họa trên chúng con bởi vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con là công chính trong mọi việc Ngài làm, chỉ có chúng con không chịu vâng theo tiếng của Ngài.

15. Bây giờ, lạy Chúa là Đức Chúa Trời của chúng con, là Đấng đã dùng bàn tay quyền năng đem dân Ngài ra khỏi đất Ai Cập, và làm nổi danh Ngài như hiện nay; chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác. 16. Lạy Chúa! Theo tất cả sự công chính của Ngài, con cầu nguyện xin Ngài xoay cơn giận và sự phẫn nộ của Ngài khỏi Giê-ru-sa-lem - là thành của Ngài, là núi thánh của Ngài - chính vì tội lỗi của chúng con và sự gian ác của tổ phụ chúng con mà Giê-ru-sa-lem và dân của Ngài đã bị tất cả những người chung quanh chúng con sỉ nhục.

17. Vì vậy bây giờ, Đức Chúa Trời của chúng con, xin lắng nghe lời khấn nguyện và những lời cầu xin của đầy tớ Ngài; và vì danh của Chúa, xin hãy chiếu sáng mặt Ngài trên nơi thánh của Ngài vẫn còn đang hoang tàn. 18. Đức Chúa Trời của con! Xin nghiêng tai nghe, xin mở mắt thấy cảnh hoang tàn của chúng con và thành phố mang danh của Ngài - bởi vì chúng con không dựa vào sự công chính của chúng con, nhưng chúng con trình dâng lời cầu xin trước mặt Ngài dựa vào sự thương xót vô biên của Ngài.

19. Lạy Chúa! Xin hãy lắng nghe. Lạy Chúa! Xin hãy tha thứ. Lạy Chúa! Xin đoái xem và hành động. Lạy Đức Chúa Trời của con, vì chính mình Ngài, xin đừng trì hoãn. Hãy vì thành của Ngài và dân của Ngài, là dân được gọi bằng danh của Ngài.

20. Trong khi tôi đang cầu nguyện, xưng nhận tội lỗi của tôi và tội lỗi của dân tộc tôi là Y-sơ-ra-ên, trình dâng lời cầu xin của tôi trước mặt Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của tôi về núi thánh của Đức Chúa Trời tôi. 21. Khi tôi đang dâng lời cầu nguyện, thì Gáp-ri-ên là người mà tôi đã thấy trong khải tượng đầu tiên, đã bay thật nhanh đến bên tôi vào giờ dâng sinh tế buổi chiều. 22. Người báo cho tôi và nói với tôi rằng:

Hỡi Đa-ni-ên! Bây giờ ta đến để ban cho ngươi khả năng để hiểu biết. 23. Ngay khi ngươi bắt đầu cầu xin thì mệnh lệnh đã được ban ra, và ta đến để giải bày cho ngươi, bởi vì ngươi rất được yêu quý. Vì vậy hãy suy gẫm lời đó và hiểu khải tượng.

24. Có bảy mươi tuần lễ đã được ấn định để dân tộc của ngươi và thành thánh của ngươi để kết thúc sự vi phạm, chấm dứt tội lỗi, đền xong tội ác, và đem lại sự công chính đời đời; rồi niêm phong khải tượng và lời tiên tri, cùng xức dầu cho Nơi Chí Thánh.

25. Vì vậy ngươi hãy biết và hiểu rằng từ khi lệnh phục hồi và tái thiết Giê-ru-sa-lem cho đến khi Đấng Chịu Xức Dầu xuất hiện, là bảy tuần lễ và sáu mươi hai tuần lễ. Ngay trong thời kỳ khó khăn, thành sẽ được xây lại, có đường phố và chiến hào.

26. Sau sáu mươi hai tuần lễ, Đấng Chịu Xức Dầu sẽ bị loại trừ, nhưng không phải vì chính Ngài. Dân của một lãnh đạo, một người sẽ đến, sẽ hủy phá thành và nơi thánh, rồi kết thúc như một trận lụt; và kết cuộc của cuộc chiến là cảnh hoang tàn đã được ấn định. 27. Người sẽ lập giao ước vững vàng với nhiều người trong một tuần lễ, nhưng đến giữa tuần lễ, người sẽ chấm dứt việc dâng sinh tế và các lễ vật, người là kẻ tạo ra cảnh hoang tàn bằng cách gieo rắc sự ô uế; cho đến khi sự hủy diệt hoàn toàn, là điều đã được ấn định, sẽ đổ trên kẻ gây cảnh hoang tàn.

Bản Dịch Đại Chúng

Vào năm thứ nhất khi Đa-ri-út, con trai của A-suê-ru, thuộc dòng dõi người Mê-đi, được lập lên làm vua cai trị vương quốc Canh-đê; trong năm thứ nhất của triều vua ấy, tôi, là Đa-ni-ên, đã tìm hiểu trong các sách về số năm phải trải qua theo lời Đức Giê-hô-va đã phán với Tiên tri Giê-rê-mi để hoàn tất cảnh điêu tàn của Giê-ru-sa-lem là bảy mươi năm.

Tôi hướng mặt về Chúa là Đức Chúa Trời, tìm kiếm Ngài qua lời cầu nguyện, nài xin cùng với sự kiêng ăn, mặc vải thô và tro. Tôi đã cầu nguyện cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời và xưng tội rằng:

Lạy Chúa là Đức Chúa Trời cao cả và đáng kính sợ, là Đấng giữ giao ước và tình thương của Ngài đối với những người yêu mến Ngài và tuân giữ điều răn của Ngài. Chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác, đã hành động xấu xa và phản nghịch, thậm chí đã lìa bỏ điều răn và luật lệ của Ngài. Chúng con đã không nghe những đầy tớ của Ngài là các tiên tri, là những người đã nhân danh Ngài nói với các vua, các lãnh đạo, các tổ phụ của chúng con, và tất cả dân trong xứ.

Lạy Chúa! Sự công chính thuộc về Ngài, còn sự hổ mặt thuộc về chúng con như ngày nay - thuộc về dân Do Thái, dân cư Giê-ru-sa-lem, tất cả Y-sơ-ra-ên, những người ở gần cũng như những kẻ ở xa, trong tất cả các quốc gia mà Ngài đã đuổi họ đến do những bất trung mà họ đã phạm cùng Ngài. Đức Giê-hô-va ôi! Sự hổ mặt thuộc về chúng con, thuộc về các vua, các lãnh đạo, và các tổ phụ của chúng con, bởi vì chúng con đã phạm tội cùng Ngài. Sự thương xót và tha thứ thuộc về Chúa là Đức Chúa Trời của chúng con, dù rằng chúng con đã phản loạn cùng Ngài.

Chúng con đã không vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con, để sống trong luật pháp mà Ngài đã đặt trước chúng con bởi các đầy tớ của Ngài là những tiên tri. Thật vậy, tất cả Y-sơ-ra-ên đã vi phạm luật pháp của Ngài, đã lìa bỏ và không vâng theo tiếng của Ngài. Vì vậy, những lời nguyền rủa và thề nguyện được chép trong luật pháp của Môi-se, là đầy tớ của Đức Chúa Trời, đã đổ trên chúng con bởi vì chúng con đã phạm tội cùng Ngài. Ngài đã xác nhận những lời Ngài đã phán chống lại chúng con, chống lại các thẩm phán của chúng con - là những người đã xét xử chúng con để đem lại tai họa quá lớn đổ trên chúng con - đến nỗi trong cả thiên hạ chưa từng có tai họa nào giống như tai họa đã giáng trên Giê-ru-sa-lem.

Tất cả những tai họa nầy đã giáng trên chúng con đúng như đã được chép trong luật pháp của Môi-se, dầu vậy, chúng con vẫn không cầu xin trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con để chúng con từ bỏ sự gian ác của mình và hiểu biết chân lý của Ngài.

Vì vậy Đức Giê-hô-va đã giáng tai họa trên chúng con bởi vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con là công chính trong mọi việc Ngài làm, chỉ có chúng con là không chịu vâng theo tiếng của Ngài.

Bây giờ, lạy Chúa là Đức Chúa Trời của chúng con, là Đấng đã dùng bàn tay quyền năng đem dân Ngài ra khỏi đất Ai Cập, và làm nổi danh Ngài như hiện nay; chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác. 16. Lạy Chúa! Theo tất cả sự công chính của Ngài, con cầu nguyện xin Ngài xoay cơn giận và sự phẫn nộ của Ngài khỏi Giê-ru-sa-lem - là thành của Ngài, là núi thánh của Ngài - chính vì tội lỗi của chúng con và sự gian ác của tổ phụ chúng con mà Giê-ru-sa-lem và dân của Ngài đã bị tất cả những người chung quanh chúng con sỉ nhục.

Vì vậy bây giờ, Đức Chúa Trời của chúng con, xin lắng nghe lời khấn nguyện và những lời cầu xin của đầy tớ Ngài; và vì danh của Chúa, xin hãy chiếu sáng mặt Ngài trên nơi thánh của Ngài vẫn còn đang hoang tàn. Đức Chúa Trời của con! Xin nghiêng tai nghe, xin mở mắt thấy cảnh hoang tàn của chúng con và thành phố mang danh của Ngài - bởi vì chúng con không dựa vào sự công chính của chúng con, nhưng chúng con trình dâng lời cầu xin trước mặt Ngài dựa vào sự thương xót vô biên của Ngài.

Lạy Chúa! Xin hãy lắng nghe. Lạy Chúa! Xin hãy tha thứ. Lạy Chúa! Xin đoái xem và hành động. Lạy Đức Chúa Trời của con, vì chính mình Ngài, xin đừng trì hoãn. Hãy vì thành của Ngài và dân của Ngài, là dân được gọi bằng danh của Ngài.

Trong khi tôi đang cầu nguyện, xưng nhận tội lỗi của tôi và tội lỗi của dân tộc tôi là Y-sơ-ra-ên, trình dâng lời cầu xin của tôi trước mặt Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của tôi về núi thánh của Đức Chúa Trời tôi. Khi tôi đang dâng lời cầu nguyện, thì Gáp-ri-ên là người mà tôi đã thấy trong khải tượng đầu tiên, đã bay thật nhanh đến bên tôi vào giờ dâng sinh tế buổi chiều. Người báo cho tôi và nói với tôi rằng:

Hỡi Đa-ni-ên! Bây giờ ta đến để ban cho ngươi khả năng để hiểu biết. Ngay khi ngươi bắt đầu cầu xin thì mệnh lệnh đã được ban ra, và ta đến để giải bày cho ngươi, bởi vì ngươi rất được yêu quý. Vì vậy hãy suy gẫm lời đó và hiểu khải tượng.

Có bảy mươi tuần lễ đã được ấn định để dân tộc của ngươi và thành thánh của ngươi để kết thúc sự vi phạm, chấm dứt tội lỗi, đền xong tội ác, và đem lại sự công chính đời đời; rồi niêm phong khải tượng và lời tiên tri, cùng xức dầu cho Nơi Chí Thánh.

Vì vậy ngươi hãy biết và hiểu rằng từ khi lệnh phục hồi và tái thiết Giê-ru-sa-lem cho đến khi Đấng Chịu Xức Dầu xuất hiện, là bảy tuần lễ và sáu mươi hai tuần lễ. Ngay trong thời kỳ khó khăn, thành sẽ được xây lại, có đường phố và chiến hào.

Sau sáu mươi hai tuần lễ, Đấng Chịu Xức Dầu sẽ bị loại trừ, nhưng không phải vì chính Ngài. Dân của một lãnh đạo, một người sẽ đến, sẽ hủy phá thành và nơi thánh, rồi kết thúc như một trận lụt; và kết cuộc của cuộc chiến là cảnh hoang tàn đã được ấn định. Người sẽ lập giao ước vững vàng với nhiều người trong một tuần lễ, nhưng đến giữa tuần lễ, người sẽ chấm dứt việc dâng sinh tế và các lễ vật, người là kẻ tạo ra cảnh hoang tàn bằng cách gieo rắc sự ô uế; cho đến khi sự hủy diệt hoàn toàn, là điều đã được ấn định, sẽ đổ trên kẻ gây cảnh hoang tàn.

Bản Dịch Ngữ Căn

1. Vào năm thứ nhất khi Đa-ri-út, con trai của A-suê-ru, thuộc dòng giống người Mê-đi, được lập lên làm vua cai trị vương quốc Canh-đê; 2. trong năm thứ nhất của triều vua ấy, tôi, Đa-ni-ên, tìm hiểu trong các sách về số năm phải trải qua, theo lời Đức Giê-hô-va đã phán với Tiên tri Giê-rê-mi, để hoàn tất cảnh điêu tàn của Giê-ru-sa-lem, là bảy mươi năm.

3. Tôi hướng mặt về Chúa là Đức Chúa Trời, tìm kiếm Ngài qua lời cầu nguyện, nài xin cùng với sự kiêng ăn, mặc vải thô và tro.

4. Tôi đã cầu nguyện cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời và xưng tội rằng:

Lạy Chúa là Đức Chúa Trời cao cả và đáng kính sợ, là Đấng giữ giao ước và tình thương của Ngài đối với những người yêu mến Ngài và tuân giữ điều răn của Ngài. 5. Chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác, đã hành động xấu xa và phản nghịch, thậm chí đã lìa bỏ điều răn và luật lệ của Ngài. 6. Chúng con đã không nghe những đầy tớ của Ngài là các tiên tri, là những người đã nhân danh Ngài nói với các vua, các lãnh đạo, các tổ phụ của chúng con, và tất cả dân trong xứ.

7. Lạy Chúa! Sự công chính thuộc về Ngài, còn sự hổ mặt thuộc về chúng con - như ngày nay, thuộc về người Do Thái, dân cư Giê-ru-sa-lem, tất cả Y-sơ-ra-ên, những người ở gần cũng như những kẻ ở xa, trong tất cả các quốc gia mà Ngài đã đuổi họ đến, bởi vì những bất trung mà họ đã phạm cùng Ngài. 8. Đức Giê-hô-va ôi! Sự hổ mặt thuộc về chúng con, thuộc về các vua, các lãnh đạo, và các tổ phụ của chúng con, bởi vì chúng con đã phạm tội cùng Ngài. 9. Sự thương xót và tha thứ thuộc về Chúa là Đức Chúa Trời của chúng con, dù chúng con đã phản loạn cùng Ngài. 10. Chúng con đã không vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con, để sống trong luật pháp mà Ngài đã đặt trước chúng con bởi các đầy tớ của Ngài là những tiên tri.

11. Thật vậy, tất cả Y-sơ-ra-ên đã vi phạm luật pháp của Ngài, đã lìa bỏ và không vâng theo tiếng của Ngài. Vì vậy, những lời nguyền rủa và thề nguyện được chép trong luật pháp của Môi-se, là đầy tớ của Đức Chúa Trời, đã đổ trên chúng con bởi vì chúng con đã phạm tội cùng Ngài. 12. Ngài đã xác nhận những lời Ngài đã phán chống lại chúng con, chống lại các thẩm phán của chúng con - là những người đã xét xử chúng con để đem lại tai họa quá lớn đổ trên chúng con, đến nỗi trong cả thiên hạ chưa từng có tai họa nào giống như tai họa đã giáng trên Giê-ru-sa-lem.

13. Tất cả tai họa nầy đã giáng trên chúng con đúng như đã được chép trong luật pháp của Môi-se, dầu vậy, chúng con vẫn không cầu xin trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con để chúng con từ bỏ sự gian ác của mình và hiểu biết chân lý của Ngài. 14. Vì vậy Đức Giê-hô-va đã giáng tai họa trên chúng con bởi vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con là công chính trong mọi việc Ngài làm, chỉ có chúng con không chịu vâng theo tiếng của Ngài.

15. Bây giờ, lạy Chúa là Đức Chúa Trời của chúng con, là Đấng đã dùng bàn tay quyền năng đem dân Ngài ra khỏi đất Ai Cập, và làm nổi danh Ngài như ngày nay; chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác. 16. Lạy Chúa! Theo tất cả sự công chính của Ngài, con cầu nguyện xin Ngài xoay cơn giận và sự phẫn nộ của Ngài khỏi Giê-ru-sa-lem - là thành của Ngài, là núi thánh của Ngài - chính vì tội lỗi của chúng con và sự gian ác của tổ phụ chúng con mà Giê-ru-sa-lem và dân của Ngài đã bị tất cả những người chung quanh chúng con sỉ nhục.

17. Vì vậy bây giờ, Đức Chúa Trời của chúng con, xin lắng nghe lời khấn nguyện và những lời cầu xin của đầy tớ Ngài; và vì danh của Chúa, xin hãy chiếu sáng mặt Ngài trên nơi thánh của Ngài vẫn còn đang hoang tàn. 18. Đức Chúa Trời của con! Xin nghiêng tai nghe, xin mở mắt thấy cảnh hoang tàn của chúng con và thành phố mang danh của Ngài - bởi vì chúng con không dựa vào sự công chính của chúng con, nhưng chúng con trình dâng lời cầu xin trước mặt Ngài dựa vào sự thương xót vô biên của Ngài. 19. Lạy Chúa! Xin hãy lắng nghe. Lạy Chúa! Xin hãy tha thứ. Lạy Chúa! Xin đoái xem và hành động. Lạy Đức Chúa Trời của con, vì chính mình Ngài, xin đừng trì hoãn - vì thành của Ngài và dân của Ngài đã được gọi bằng danh của Ngài.

20. Trong khi tôi đang nói lời cầu nguyện và xưng nhận tội lỗi của tôi và tội lỗi của dân tộc tôi là Y-sơ-ra-ên, trình dâng lời cầu xin của tôi trước mặt Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của tôi về núi thánh của Đức Chúa Trời tôi. 21. Khi tôi đang dâng lời cầu nguyện, thì Gáp-ri-ên là người mà tôi đã thấy trong khải tượng đầu tiên, đã bay thật nhanh đến bên tôi vào giờ dâng sinh tế buổi chiều. 22. Người báo cho tôi và nói với tôi rằng:

Hỡi Đa-ni-ên! Bây giờ ta đến để ban cho ngươi khả năng để hiểu biết. 23. Ngay khi ngươi bắt đầu cầu xin thì lệnh đã ban ra, và ta đến để giải bày cho ngươi, bởi vì ngươi rất được yêu quý. Vì vậy hãy suy gẫm lời đó và hiểu khải tượng.

24. Có bảy mươi tuần lễ đã được ấn định để dân tộc của ngươi và thành thánh của ngươi để kết thúc sự vi phạm, chấm dứt tội lỗi, đền xong tội ác, và đem lại sự công chính đời đời; rồi niêm phong khải tượng và lời tiên tri, cùng xức dầu cho Nơi Chí Thánh.

25. Vì vậy ngươi hãy biết và hiểu rằng từ khi lệnh phục hồi và tái thiết Giê-ru-sa-lem cho đến khi Đấng Chịu Xức Dầu xuất hiện, là bảy tuần lễ và sáu mươi hai tuần lễ. Thành sẽ được xây lại, có đường phố và chiến hào, ngay trong thời kỳ khó khăn. 26. Sau sáu mươi hai tuần lễ, Đấng Chịu Xức Dầu sẽ bị loại trừ, nhưng không phải vì chính Ngài. Dân của một lãnh đạo, một người sẽ đến, sẽ hủy phá thành và nơi thánh, rồi kết thúc như một trận lụt; và kết cuộc của cuộc chiến là cảnh hoang tàn đã được ấn định. 27. Người sẽ lập giao ước vững vàng với nhiều người trong một tuần lễ, nhưng đến giữa tuần lễ, người sẽ chấm dứt việc dâng sinh tế và các lễ vật, người là kẻ tạo ra cảnh hoang tàn bằng cách gieo rắc sự ô uế; cho đến khi sự hủy diệt hoàn toàn - là điều đã được ấn định - sẽ tuôn đổ trên kẻ tạo nên cảnh hoang tàn.

Bản Dịch 1925

1. Năm đầu Đa-ri-út con trai A-suê-ru, về dòng người Mê-đi, đã được lập làm vua trị nước người Canh-đê; 2. đang năm đầu về triều người, ta, Đa-ni-ên, bởi các sách biết rằng số năm mà lời Đức Giê-hô-va đã phán cùng đấng tiên tri Giê-rê-mi, để cho trọn sự hoang vu thành Giê-ru-sa-lem, là bảy mươi năm. 3. Ta để mặt hướng về Chúa là Đức Chúa Trời, lấy sự khấn nguyện, nài xin, với sự kiêng ăn, mặc bao gai, đội tro mà tìm.

4. Vậy, ta cầu nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời ta, và ta xưng tội cùng Ngài mà rằng: O�i! Chúa là Đức Chúa Trời cao cả và đáng khiếp sợ! Ngài giữ lời giao ước và sự nhơn từ đối với những kẻ yêu Ngài và giữ các điều răn Ngài, 5. chúng tôi đã phạm tội, làm sự trái ngược, ăn ở hung dữ, chúng tôi đã bạn nghịch và đã xây bỏ các giềng mối và lệ luật của Ngài. 6. Chúng tôi đã không nghe các tôi tớ Ngài là các đấng tiên tri, đã lấy danh Ngài mà nói cùng các vua, các quan trưởng, các tổ phụ chúng tôi, và cùng cả dân trong đất. 7. Hỡi Chúa, sự công bình thuộc về Ngài, còn sự hổ mặt về chúng tôi, như ngày nay, sự ấy bao trùm người Giu-đa, dân cư Giê-ru-sa-lem, hết thảy người Y-sơ-ra-ên ở gần ở xa, trong mọi nước mà Ngài đã làm cho họ tan tác, vì cớ những sự gian ác họ đã phạm nghịch cùng Ngài. 8. Hỡi Chúa, sự hổ mặt thuộc về chúng tôi, về các vua, các quan trưởng, các tổ phụ chúng tôi, bởi chúng tôi đã phạm tội nghịch cùng Ngài. 9. Những sự thương xót và tha thứ đều thuộc về Chúa là Đức Chúa Trời chúng tôi; bởi chúng tôi đã bạn nghịch cùng Ngài.

10. Chúng tôi đã chẳng nghe lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi, đặng bước đi trong luật pháp mà Ngài đã cậy tôi tớ Ngài là các đấng tiên tri để trước mặt chúng tôi. 11. Hết thảy người Y-sơ-ra-ên đã phạm luật pháp Ngài và xây đi để không vâng theo tiếng Ngài. Vậy nên sự rủa sả, và thề nguyền chép trong luật pháp Môi-se là tôi tớ của Đức Chúa Trời, đã đổ ra trên chúng tôi, vì chúng tôi đã phạm tội nghịch cùng Ngài. 12. Ngài đã làm cho chắc các lời đã phán nghịch cùng chúng tôi, cùng các quan án đã đoán xét chúng tôi, mà khiến tai vạ lớn đến trên chúng tôi; vì khắp dưới trời chẳng hề có tai vạ nào giống như đã làm ra trên Giê-ru-sa-lem. 13. Cả tai vạ nầy đã đến trên chúng tôi như có chép trong luật pháp Môi-se; mà chúng tôi cũng không nài xin ơn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, đặng xây bỏ khỏi sự gian ác mình và thấu rõ đạo thật của Ngài. 14. Bởi cớ đó, Đức Giê-hô-va ngắm xem và giáng tai vạ ấy trên chúng tôi; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi là công bình trong mọi việc Ngài làm, chỉn chúng tôi không vâng theo tiếng Ngài.

15. Bây giờ, hỡi Chúa là Đức Chúa Trời chúng tôi, Ngài đã lấy tay mạnh đem dân Ngài ra khỏi đất Ê-díp-tô, đã làm nên cho mình một danh tiếng như ngày nay; còn chúng tôi đã phạm tội, đã làm việc ác. 16. Hỡi Chúa, tôi cầu xin Chúa cứ mọi sự công bình Ngài khiến cơn giận và thạnh nộ của Ngài xây khỏi thành Giê-ru-sa-lem Ngài, tức là núi thánh Ngài; vì ấy là bởi tội lỗi chúng tôi và sự gian ác tổ phụ chúng tôi mà Giê-ru-sa-lem và dân Ngài phải chịu những kẻ ở chung quanh chúng tôi sỉ nhục. 17. Cho nên bây giờ, hỡi Đức Chúa Trời chúng tôi, xin đoái nghe lời khấn nguyện nài xin của kẻ tôi tớ Ngài! Xin vì cớ Chúa, hãy rạng mặt Ngài ra trên nơi thánh vắng vẻ của Ngài! 18. Hỡi Đức Chúa Trời tôi, xin ghé tai và nghe. Xin mở mắt nhìn xem những nơi hoang vu của chúng tôi, và thành đã được xưng bởi danh Ngài! Không phải cậy những sự công bình mình mà chúng tôi nài xin Ngài, nhưng cậy những sự thương xót cả thể của Ngài. 19. Hỡi Chúa! hãy dủ nghe; hỡi Chúa! hãy tha thứ; hỡi Chúa! hãy để ý và làm đi. Hỡi Đức Chúa Trời tôi! vì cớ chính Ngài, xin chớ trì hoãn; vì thành Ngài và dân Ngài đã được xưng bằng danh Ngài!

20. Ta còn đang nói và cầu nguyện, xưng tội lỗi ta và tôi lỗi dân Y-sơ-ra-ên ta và ta dâng lời nài xin trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời ta, vì núi thánh Đức Chúa Trời ta; 21. vậy ta còn nói trong khi cầu nguyện, nầy, Gáp-ri-ên, người mà ta đã thấy trong sự hiện thấy lúc đầu tiên, được sai bay mau đến đụng ta độ lúc dâng lễ chiều hôm. 22. Người dạy dỗ ta và nói cùng ta rằng: Hỡi Đa-ni-ên, bây giờ ta ra để ban sự khôn ngoan và thông sáng cho ngươi. 23. Lời phán dặn đã ra từ khi ngươi bắt đầu nài xin; và ta đến để tỏ lời đó cho ngươi, vì ngươi đã được yêu quí lắm. Vậy hãy suy nghĩ sự đó và hãy hiểu biết sự hiện thấy.

24. Có bảy mươi tuần lễ định trên dân ngươi và thành thánh ngươi, đặng ngăn sự phạm phép, trừ tội lỗi, làm sạch sự gian ác, và đem sự công bình đời đời vào, đặng đặt ấn tín nơi sự hiện thấy và lời tiên tri, và xức dầu cho Đấng rất thánh. 25. Ngươi khá biết và hiểu rằng từ khi ra lịnh tu bổ và xây lại Giê-ru-sa-lem, cho đến Đấng chịu xức dầu, tức là vua, thì được bảy tuần lễ và sáu mươi hai tuần lễ; thành đó sẽ được xây lại, có đường phố và hào, trong kỳ khó khăn.

26. Sau sáu mươi hai tuần lễ đó, Đấng chịu xức dầu sẽ bị trừ đi, và sẽ không có chi hết. Có dân của vua hầu đến sẽ hủy phá thành và nơi thánh; cuối cùng nó sẽ như bị nước lụt ngập, có sự tranh chiến cho đến cuối cùng; những sự hoang vu đã định. 27. Người sẽ lập giao ước vững bền với nhiều người trong một tuần lễ, và đến giữa tuần ấy, người sẽ khiến của lễ và của lễ chay dứt đi. Kẻ hủy phá sẽ đến bởi cánh gớm ghiếc, và sẽ có sự giận dữ đổ trên nơi bị hoang vu, cho đến kỳ sau rốt, là kỳ đã định.

Bản Dịch 2011

Ða-ni-ên Cầu Nguyện cho Dân Ông

1 Năm thứ nhất triều đại Ða-ri-út con của A-ha-suê-ru, thuộc chủng tộc Mê-đi, người đã được lập làm vua trị vì cả đế quốc của người Canh-đê, 2 trong năm thứ nhất của triều đại vua ấy, tôi, Ða-ni-ên, nhờ nghiên cứu sách thánh, biết được số năm mà lời CHÚA đã cậy Tiên Tri Giê-rê-mi nói về cảnh đổ nát điêu tàn của Giê-ru-sa-lem là bảy mươi năm sắp mãn. 3 Tôi kiêng ăn, mặc vải thô, và rắc tro trên đầu, rồi hướng mặt về Chúa, Ðức Chúa Trời, mà dâng lời cầu nguyện và nài xin. 4 Tôi đã cầu nguyện và xưng tội với CHÚA, Ðức Chúa Trời của tôi, rằng:

“Ôi lạy Chúa, Ðức Chúa Trời vĩ đại và đáng kinh, Ðấng giữ giao ước và tỏ lòng thương xót đối với ai yêu kính Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài. 5 Chúng con đã phạm tội và có lỗi. Chúng con đã làm điều gian ác và phản nghịch. Chúng con đã lìa bỏ những điều răn và luật lệ Ngài. 6 Chúng con đã không nghe lời các vị tiên tri, tức các tôi tớ Ngài, những người đã nhân danh Ngài mà nói với các vua, các quan, các bậc tiền bối, và toàn dân trong nước.

7 Lạy Chúa, nguyện lẽ công chính thuộc về Ngài, còn sự hổ mặt thuộc về chúng con như đã thấy ngày nay, tức trên người Giu-đa, dân cư Giê-ru-sa-lem, và mọi người I-sơ-ra-ên, và trên mọi người ở gần hoặc ở xa, trong mọi xứ mà Ngài đã đuổi họ đến, vì họ đã phạm tội bất trung và chống nghịch Ngài.

8 Lạy CHÚA, nguyện sự hổ mặt đổ trên chúng con, trên các vua chúng con, các quan chúng con, và các bậc tiền bối chúng con, vì chúng con đã phạm tội nghịch lại Ngài.

9 Nguyện ơn thương xót và ơn tha thứ thuộc về Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng con, vì chúng con đã phản nghịch Ngài. 10 Chúng con đã không vâng theo tiếng CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng con, để vâng giữ luật pháp Ngài mà Ngài đã dùng các tôi tớ Ngài, tức các vị tiên tri Ngài, giải bày cho chúng con.

11 Toàn dân I-sơ-ra-ên đã vi phạm luật pháp Ngài và lìa bỏ luật pháp ấy bằng cách từ chối vâng theo tiếng Ngài. Vì thế những lời nguyền rủa và thề nguyền ghi trong luật pháp của Môi-se tôi tớ Ðức Chúa Trời đã đổ xuống trên chúng con, vì chúng con đã phạm tội nghịch lại Ngài. 12 Ngài đã thực hiện lời Ngài cảnh cáo chúng con và những người lãnh đạo chúng con, bằng cách giáng xuống Giê-ru-sa-lem một cơn đại họa chưa từng thấy dưới trời. 13 Thật đúng y như đã chép trong luật pháp của Môi-se; tất cả các thảm họa ấy đã đến trên chúng con. Thế mà chúng con vẫn không chịu tìm cầu ơn thương xót của CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng con, mà lìa bỏ tội lỗi, và tỉnh ngộ nhờ chân lý Ngài. 14 Vì thế CHÚA đã để dành thảm họa ấy và đã giáng nó trên chúng con. Về việc này, CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng con, hoàn toàn đúng trong mọi việc Ngài làm, vì chúng con đã không vâng theo tiếng Ngài.

15 Giờ đây, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng con, Ðấng đã đem dân Ngài ra khỏi đất Ai-cập bằng cánh tay quyền năng và đã làm cho danh Ngài được lẫy lừng cho đến ngày nay; chúng con đã phạm tội, chúng con đã làm điều ác. 16 Lạy Chúa, dựa theo mọi điều công chính Ngài đã thực hiện, cầu xin Ngài quay cơn giận và cơn thịnh nộ Ngài khỏi Giê-ru-sa-lem, thành của Ngài, núi thánh của Ngài; bởi vì tội lỗi của chúng con và sự gian ác của tổ tiên chúng con mà Giê-ru-sa-lem và dân Ngài đã trở thành cớ sỉ nhục giữa mọi nước láng giềng của chúng con.

17 Vậy, giờ đây, lạy Ðức Chúa Trời của chúng con, xin lắng nghe lời cầu nguyện và lời van xin của tôi tớ Ngài. Lạy Chúa, vì cớ danh Ngài, nguyện thánh nhan Ngài tỏa rạng trên nơi thánh Ngài đang đổ nát. 18 Lạy Ðức Chúa Trời của con, xin nghiêng tai và nghe. Xin đoái xem và nhìn thấy cảnh tan hoang của chúng con và của thành mang danh Ngài. Chúng con không cậy vào đức công chính của chúng con để cầu xin Ngài, nhưng xin cậy vào ơn thương xót lớn lao của Ngài. 19 Lạy Chúa, xin lắng nghe; lạy Chúa, xin tha thứ; lạy Chúa, xin đoái thương và hành động. Vì cớ danh Ngài, xin đừng trì hoãn, lạy Ðức Chúa Trời của con, và cũng vì cớ thành của Ngài và dân mang danh Ngài nữa.”

Bảy Mươi Tuần

20 Trong khi tôi đang nói, cầu nguyện, và xưng tội của tôi và tội của dân I-sơ-ra-ên tôi, và trình dâng những lời khẩn nguyện của tôi lên trước thánh nhan CHÚA, Ðức Chúa Trời của tôi, vì cớ núi thánh của Ðức Chúa Trời tôi, 21 đang khi tôi nói những lời cầu nguyện ấy, người đàn ông Gáp-ri-ên, người tôi đã thấy trong khải tượng trước, được sai bay vụt đến bên tôi vào giờ dâng của lễ chiều tối. 22 Vị ấy giúp cho tôi hiểu, nói chuyện với tôi, và bảo rằng, “Hỡi Ða-ni-ên, bây giờ ta đến để ban cho ngươi sự thông minh và thông sáng. 23 Khi ngươi bắt đầu cầu nguyện thì lệnh đã ban ra, và ta đến để báo cho ngươi lệnh ấy, vì ngươi rất được yêu quý. Vậy hãy suy nghĩ về sứ điệp và hiểu ý nghĩa của khải tượng:

24 Bảy mươi tuần đã được định cho dân ngươi và cho thành thánh của ngươi, để kết thúc sự vi phạm, chấm dứt tội lỗi, đền xong tội ác, mang lại sự công chính vĩnh cửu, làm ứng nghiệm khải tượng và lời tiên tri, và xức dầu cho Nơi Chí Thánh. 25 Vậy ngươi khá biết và hiểu rằng từ khi lệnh ban ra để tái lập và tái thiết Giê-ru-sa-lem cho đến khi Ðấng Mê-si-a Vị Thủ Lãnh xuất hiện sẽ có bảy tuần và sáu mươi hai tuần. Các phố xá và các chiến hào sẽ được xây dựng lại, mặc dù giữa lúc nhiễu nhương. 26 Sau sáu mươi hai tuần, Ðấng Mê-si-a sẽ bị giết, rồi sẽ chẳng còn gì. Quân lính của tên thủ lãnh sắp đến sẽ phá hủy thành và nơi thánh. Hậu quả cuối cùng sẽ như bị một trận lụt tàn phá, và đến cuối cùng sẽ có chiến tranh; còn những cảnh tan hoang đã định ắt sẽ xảy ra. 27 Tên thủ lãnh sắp đến ấy sẽ xác định lập trường của nó với nhiều người qua một giao ước có thời hạn một tuần. Tuy nhiên chỉ mới giữa tuần, nó sẽ bắt người ta phải ngưng dâng các sinh vật hiến tế và các lễ vật. Nó sẽ làm cho nơi ấy phải chịu cảnh tan hoang bằng cách đem vào cánh của nơi thánh những thứ gớm ghiếc, và chúng sẽ còn đó cho đến hồi kết thúc. Bấy giờ những gì đã định sẽ trút xuống đầu kẻ gây nên cảnh tan hoang.”

Tài Liệu

  • Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
  • Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành