Đa-ni-ên: Chương 6
Mục lục
Bản Dịch Việt Ngữ
1. Đẹp ý Đa-ri-út, vua đã bổ nhiệm một trăm hai mươi tỉnh trưởng để cai trị toàn vương quốc. 2. Trên những người này có ba vị thống đốc, và Đa-ni-ên là một trong ba vị mà các tỉnh trưởng phải khai trình với họ để nhà vua không bị thiệt hại.
3. Đa-ni-ên vượt trội hơn tất cả các thống đốc và các tỉnh trưởng bởi vì thần linh siêu phàm ngự trong ông. Vua có ý định lập ông cai trị toàn vương quốc. 4. Vì vậy, các thống đốc và các tỉnh trưởng tìm cách bắt bẻ Đa-ni-ên về việc nước, nhưng họ không thể tìm được ở ông một lỗi lầm hay vi phạm nào, bởi vì ông là một người trung tín, không hề mắc lỗi lầm hay sai trật. 5. Và rồi những người đó nói: Chúng ta không thể tìm được vi phạm nào của Đa-ni-ên nầy, ngoại trừ tìm ra luật để chống lại hắn trong việc liên hệ với Đức Chúa Trời của hắn.
6. Các thống đốc và các tỉnh trưởng kéo nhau vào chầu vua và tâu cùng người rằng: Vua Đa-ri-út vạn tuế! 7. Tất cả các thống đốc trong vương quốc, các tổng trấn, các tỉnh trưởng, các vị tham mưu, các cố vấn đều đồng tình xin hoàng thượng thiết lập một sắc luật và ra lệnh nghiêm cấm trong vòng ba mươi ngày, hễ ai cầu nguyện với bất cứ thần nào hoặc người nào ngoại trừ hoàng thượng, tâu hoàng thượng, kẻ ấy sẽ bị quăng vào hang sư tử. 8. Bây giờ, kính xin hoàng thượng thiết lập sắc lệnh và ký vào văn bản để không thể thay đổi được theo như luật pháp không thay đổi của người Mê-đi và Ba Tư.
9. Vì vậy, Vua Đa-ri-út đã ký vào sắc lệnh đã được viết.
10. Khi Đa-ni-ên biết sắc lệnh đã được ký, thì về nhà, mở các cửa sổ trên một phòng cao, hướng về Giê-ru-sa-lem. Tại đó, mỗi ngày ba lần ông quỳ gối cầu nguyện và ca ngợi Đức Chúa Trời như vẫn làm từ trước đến nay.
11. Và rồi, những người này đã họp nhau và bắt gặp Đa-ni-ên đang cầu nguyện và nài xin trước mặt Đức Chúa Trời của ông. 12. Họ đến chầu trước vua và tâu với vua về lệnh cấm: Tâu hoàng thượng! Không phải hoàng thượng đã ký một sắc lệnh rằng trong ba mươi ngày hễ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức vua thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử hay sao?
Vua trả lời: Đúng vậy! Đó là luật pháp không thay đổi của người Mê-đi và người Ba Tư.
13. Sau đó, họ đã tâu với vua: Đa-ni-ên là một kẻ lưu đày từ Giu-đa đã không kiêng nể đức vua, hay sắc lệnh mà hoàng thượng đã ký, nhưng vẫn cầu nguyện mỗi ngày ba lần.
14. Ngay sau khi nghe những lời đó vua rất đau lòng và quyết tâm với chính mình để giải thoát cho Đa-ni-ên; vua đã vất vả cho đến mặt trời lặn để giải cứu ông.
15. Sau đó, những người này đã họp với nhau và đến nói với vua: Tâu hoàng thượng! Xin hãy nhớ rằng theo luật pháp của người Mê-đi và Ba Tư, mọi sắc lệnh hay chiếu chỉ mà vua đã thiết lập đều không thể thay đổi.
16. Vì vậy, vua đã ra lệnh, và người ta đã mang Đa-ni-ên ném vào hang sư tử. Vua nói cùng Đa-ni-ên rằng: Đức Chúa Trời của ngươi, là Đấng ngươi luôn luôn phục vụ, sẽ giải cứu ngươi!
17. Một tảng đá được mang đến, đặt trên miệng hang, và được niêm lại với ấn của vua và các ấn của những đại thần để không điều gì có thể thay đổi về Đa-ni-ên nữa.
18. Sau đó, vua trở về cung, và suốt đêm kiêng ăn, cũng không có nhạc công nào được mang đến trước vua cả, và vua không ngủ được.
19. Vừa rạng sáng vua đã trỗi dậy, vội vàng đến hang sư tử. 20. Khi vua đến hang, vua gọi Đa-ni-ên với giọng thảm sầu. Vua nói cùng Đa-ni-ên: Hỡi Đa-ni-ên, là đầy tớ của Đức Chúa Trời hằng sống! Đức Chúa Trời của ngươi mà ngươi luôn luôn phục vụ có thể cứu ngươi khỏi sư tử không?
21. Và rồi Đa-ni-ên đã nói với vua: Chúc hoàng thượng sống mãi mãi! 22. Đức Chúa Trời của tôi đã sai thiên sứ của Ngài đến bịt miệng tất cả sư tử cho nên chúng không làm hại đến tôi, bởi vì trước mặt Ngài tôi là người vô tội; và cũng vậy, trước mặt hoàng thượng tôi đã không làm điều gì sai trái.
23. Vua vô cùng mừng rỡ, rồi truyền lệnh đem Đa-ni-ên ra khỏi hang. Vì vậy, Đa-ni-ên đã được đem ra khỏi hang. Trên người ông không có một thương tích nào cả bởi vì ông đã tin cậy Đức Chúa Trời của mình.
24. Vua truyền lệnh, và rồi người ta mang những kẻ đã tố cáo Đa-ni-ên đến. Họ đã quăng những người này, cùng con của họ, và vợ của họ vào hang sư tử. Trước khi những người này chạm đến đáy hang thì sư tử đã vồ tất cả và xé xương của họ ra từng mảnh.
25. Sau đó, Vua Đa-ri-út đã viết cho tất cả các dân tộc, các quốc gia, các ngôn ngữ trên khắp đất: Chúc các ngươi được bình an bội phần! 26. Ta ban chiếu chỉ rằng trên khắp vương quốc của ta mọi người phải tôn kính và run sợ trước Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và tồn tại mãi mãi; vương quốc của Ngài không bao giờ bị tiêu diệt, và sự tể trị của Ngài bất tận. 27. Ngài giải cứu và giải thoát; Ngài thực hiện những dấu lạ và những việc diệu kỳ trên trời dưới đất; là Đấng đã giải cứu Đa-ni-ên khỏi sức mạnh của sư tử.
28. Vì vậy Đa-ni-ên nầy đã thành đạt dưới triều vua Đa-ri-út và vua Si-ru, người Ba Tư.
Bản Dịch Đại Chúng
Đẹp ý Đa-ri-út, vua đã bổ nhiệm một trăm hai mươi tỉnh trưởng để cai trị toàn vương quốc. Trên những người này có ba vị thống đốc, và Đa-ni-ên là một trong ba vị mà các tỉnh trưởng phải khai trình với họ để nhà vua không bị thiệt hại.
Đa-ni-ên vượt trội hơn tất cả các thống đốc và các tỉnh trưởng bởi vì thần linh siêu phàm ngự trong ông. Vua có ý định lập ông cai trị toàn vương quốc. Vì vậy, các thống đốc và các tỉnh trưởng tìm cách bắt bẻ Đa-ni-ên về việc nước, nhưng họ không thể tìm được ở ông một lỗi lầm hay vi phạm nào, bởi vì ông là một người trung tín, không hề mắc lỗi lầm hay sai trật. Và rồi những người đó nói: Chúng ta không thể tìm được vi phạm nào của Đa-ni-ên nầy, ngoại trừ tìm ra luật để chống lại hắn trong việc liên hệ với Đức Chúa Trời của hắn.
Các thống đốc và các tỉnh trưởng kéo nhau vào chầu vua và tâu cùng người rằng: Vua Đa-ri-út vạn tuế! Tất cả các thống đốc trong vương quốc, các tổng trấn, các tỉnh trưởng, các vị tham mưu, các cố vấn đều đồng tình xin hoàng thượng thiết lập một sắc luật và ra lệnh nghiêm cấm trong vòng ba mươi ngày, hễ ai cầu nguyện với bất cứ thần nào hoặc người nào ngoại trừ hoàng thượng, tâu hoàng thượng, kẻ ấy sẽ bị quăng vào hang sư tử. Bây giờ, kính xin hoàng thượng thiết lập sắc lệnh và ký vào văn bản để không thể thay đổi được theo như luật pháp không thay đổi của người Mê-đi và Ba Tư.
Vì vậy, Vua Đa-ri-út đã ký vào sắc lệnh đã được viết.
Khi Đa-ni-ên biết sắc lệnh đã được ký, thì về nhà, mở các cửa sổ trên một phòng cao, hướng về Giê-ru-sa-lem. Tại đó, mỗi ngày ba lần ông quỳ gối cầu nguyện và ca ngợi Đức Chúa Trời như vẫn làm từ trước đến nay.
Và rồi, những người này đã họp nhau và bắt gặp Đa-ni-ên đang cầu nguyện và nài xin trước mặt Đức Chúa Trời của ông. Họ đến chầu trước vua và tâu với vua về lệnh cấm: Tâu hoàng thượng! Không phải hoàng thượng đã ký một sắc lệnh rằng trong ba mươi ngày hễ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức vua thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử hay sao?
Vua trả lời: Đúng vậy! Đó là luật pháp không thay đổi của người Mê-đi và người Ba Tư.
Sau đó, họ đã tâu với vua: Đa-ni-ên là một kẻ lưu đày từ Giu-đa đã không kiêng nể đức vua, hay sắc lệnh mà hoàng thượng đã ký, nhưng vẫn cầu nguyện mỗi ngày ba lần.
Ngay sau khi nghe những lời đó vua rất đau lòng và quyết tâm với chính mình để giải thoát cho Đa-ni-ên; vua đã vất vả cho đến mặt trời lặn để giải cứu ông.
Sau đó, những người này đã họp với nhau và đến nói với vua: Tâu hoàng thượng! Xin hãy nhớ rằng theo luật pháp của người Mê-đi và Ba Tư, mọi sắc lệnh hay chiếu chỉ mà vua đã thiết lập đều không thể thay đổi.
Vì vậy, vua đã ra lệnh, và người ta đã mang Đa-ni-ên ném vào hang sư tử. Vua nói cùng Đa-ni-ên rằng: Đức Chúa Trời của ngươi, là Đấng ngươi luôn luôn phục vụ, sẽ giải cứu ngươi!
Một tảng đá được mang đến, đặt trên miệng hang, và được niêm lại với ấn của vua và các ấn của những đại thần để không điều gì có thể thay đổi về Đa-ni-ên nữa.
Sau đó, vua trở về cung, và suốt đêm kiêng ăn, cũng không có nhạc công nào được mang đến trước vua cả, và vua không ngủ được.
Vừa rạng sáng vua đã trỗi dậy, vội vàng đến hang sư tử. Khi vua đến hang, vua gọi Đa-ni-ên với giọng thảm sầu. Vua nói cùng Đa-ni-ên: Hỡi Đa-ni-ên, là đầy tớ của Đức Chúa Trời hằng sống! Đức Chúa Trời của ngươi mà ngươi luôn luôn phục vụ có thể cứu ngươi khỏi sư tử không?
Và rồi Đa-ni-ên đã nói với vua: Chúc hoàng thượng sống mãi mãi! Đức Chúa Trời của tôi đã sai thiên sứ của Ngài đến bịt miệng tất cả sư tử cho nên chúng không làm hại đến tôi, bởi vì trước mặt Ngài tôi là người vô tội; và cũng vậy, trước mặt hoàng thượng tôi đã không làm điều gì sai trái.
Vua vô cùng mừng rỡ, rồi truyền lệnh đem Đa-ni-ên ra khỏi hang. Vì vậy, Đa-ni-ên đã được đem ra khỏi hang. Trên người ông không có một thương tích nào cả bởi vì ông đã tin cậy Đức Chúa Trời của mình.
Vua truyền lệnh, và rồi người ta mang những kẻ đã tố cáo Đa-ni-ên đến. Họ đã quăng những người này, cùng con của họ, và vợ của họ vào hang sư tử. Trước khi những người này chạm đến đáy hang thì sư tử đã vồ tất cả và xé xương của họ ra từng mảnh.
Sau đó, Vua Đa-ri-út đã viết cho tất cả các dân tộc, các quốc gia, các ngôn ngữ trên khắp đất: Chúc các ngươi được bình an bội phần! Ta ban chiếu chỉ rằng trên khắp vương quốc của ta mọi người phải tôn kính và run sợ trước Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và tồn tại mãi mãi; vương quốc của Ngài không bao giờ bị tiêu diệt, và sự tể trị của Ngài bất tận. Ngài giải cứu và giải thoát; Ngài thực hiện những dấu lạ và những việc diệu kỳ trên trời dưới đất; là Đấng đã giải cứu Đa-ni-ên khỏi sức mạnh của sư tử.
Vì vậy Đa-ni-ên nầy đã thành đạt dưới triều vua Đa-ri-út và vua Si-ru, người Ba Tư.
Bản Dịch Ngữ Căn
1. Đẹp ý Đa-ri-út, vua đã bổ nhiệm một trăm hai mươi tỉnh trưởng để cai trị toàn vương quốc, 2. trên những người này có ba vị thống đốc, Đa-ni-ên là một trong ba vị mà các tỉnh trưởng phải khai trình với họ để nhà vua không bị thiệt hại.
3. Đa-ni-ên vượt trội hơn tất cả các thống đốc và các tỉnh trưởng bởi vì thần linh siêu phàm ngự trong ông; vua có ý định lập ông cai trị toàn vương quốc. 4. Vì vậy, các thống đốc và các tỉnh trưởng tìm cách bắt bẻ Đa-ni-ên về việc nước, nhưng họ không thể tìm được ở ông một lỗi lầm hay vi phạm nào, bởi vì ông là một người trung tín, không hề mắc lỗi lầm hay sai trật. 5. Và rồi những người đó nói: Chúng ta không thể tìm được vi phạm nào của Đa-ni-ên nầy, ngoại trừ tìm ra luật để chống lại hắn trong việc liên hệ với Đức Chúa Trời của hắn.
6. Các thống đốc và các tỉnh trưởng nối nhau vào chầu vua và tâu cùng người rằng: Vua Đa-ri-út vạn tuế! 7. Tất cả các thống đốc trong vương quốc, các tổng trấn, các tỉnh trưởng, các vị tham mưu, các cố vấn đều đồng tình xin hoàng thượng thiết lập một sắc luật và ra lệnh nghiêm cấm trong vòng ba mươi ngày, hễ ai cầu nguyện với bất cứ thần nào hoặc người nào ngoại trừ hoàng thượng, tâu hoàng thượng, kẻ ấy sẽ bị quăng vào hang sư tử. 8. Bây giờ, kính xin hoàng thượng thiết lập sắc lệnh và ký vào văn bản để không thể thay đổi được theo như luật pháp không thay đổi của người Mê-đi và người Ba Tư.
9. Vì vậy, Vua Đa-ri-út đã ký vào sắc lệnh đã được viết.
10. Khi Đa-ni-ên biết sắc lệnh đã được ký, thì về nhà, mở các cửa sổ trên một phòng cao, hướng về Giê-ru-sa-lem. Tại đó, mỗi ngày ba lần ông quỳ gối cầu nguyện và ca ngợi Đức Chúa Trời như vẫn làm từ trước đến nay.
11. Sau đó, những người này họp nhau và bắt gặp Đa-ni-ên đang cầu nguyện và nài xin trước mặt Đức Chúa Trời của ông. 12. Họ đến chầu trước vua và tâu với vua về lệnh cấm: Tâu hoàng thượng! Không phải hoàng thượng đã ký một sắc lệnh rằng trong ba mươi ngày hễ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức vua thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử hay sao?
Vua trả lời: Đúng vậy! Đó là luật pháp không thay đổi của người Mê-đi và người Ba Tư.
13. Sau đó, họ đã tâu với vua: Đa-ni-ên là một kẻ lưu đày từ Giu-đa đã không kiêng nể đức vua, hay sắc lệnh mà hoàng thượng đã ký, nhưng vẫn cầu nguyện mỗi ngày ba lần.
14. Ngay sau khi nghe những lời đó vua rất đau lòng và quyết tâm với chính mình để giải thoát cho Đa-ni-ên; vua đã vất vả cho đến mặt trời lặn để giải cứu ông.
15. Sau đó, những người này đã họp với nhau và đến nói với vua: Tâu hoàng thượng! Xin hãy nhớ rằng theo luật pháp của người Mê-đi và Ba Tư, mọi sắc lệnh hay chiếu chỉ mà vua đã thiết lập đều không thể thay đổi.
16. Vì vậy, vua đã ban lệnh, người ta mang Đa-ni-ên và ném vào hang sư tử. Vua đã nói cùng Đa-ni-ên rằng: Đức Chúa Trời của ngươi, là Đấng ngươi luôn luôn phục vụ, sẽ giải cứu ngươi!
17. Một tảng đá được mang đến, đặt trên miệng hang, và được niêm lại với ấn của vua và các ấn của những đại thần để không điều gì có thể thay đổi về Đa-ni-ên nữa.
18. Sau đó, vua trở về cung, và suốt đêm kiêng ăn, cũng không có nhạc công nào được mang đến trước vua cả, và vua không ngủ được.
19. Vừa rạng sáng vua đã trỗi dậy, vội vàng đến hang sư tử. 20. Khi vua đến hang, vua gọi Đa-ni-ên với giọng thảm sầu. Vua nói cùng Đa-ni-ên: Hỡi Đa-ni-ên, là đầy tớ của Đức Chúa Trời hằng sống! Đức Chúa Trời của ngươi mà ngươi luôn luôn phục vụ có thể cứu ngươi khỏi sư tử không?
21. Sau đó Đa-ni-ên nói với vua: Chúc hoàng thượng sống mãi mãi! 22. Đức Chúa Trời của tôi đã sai thiên sứ của Ngài đến, và bịt miệng tất cả sư tử cho nên chúng không làm hại đến tôi, bởi vì trước mặt Ngài tôi là người vô tội; và cũng vậy, trước mặt hoàng thượng tôi đã không làm điều gì sai trái.
23. Vua vô cùng mừng rỡ, rồi truyền lệnh đem Đa-ni-ên ra khỏi hang. Vì vậy, Đa-ni-ên đã được đem ra khỏi hang, trên người ông không có một thương tích nào cả bởi vì ông đã tin cậy Đức Chúa Trời của mình.
24. Vua truyền lệnh, và rồi người ta mang những kẻ đã tố cáo Đa-ni-ên đến, và họ đã quăng những người này, cùng con của họ, và vợ của họ vào hang sư tử; và trước khi những người này chạm đến đáy hang thì sư tử đã vồ tất cả và xé xương của họ ra từng mảnh.
25. Sau đó, Vua Đa-ri-út đã viết cho tất cả các dân tộc, các quốc gia, các ngôn ngữ trên khắp đất: Chúc các ngươi được bình an bội phần! 26. Ta ban chiếu chỉ rằng trên khắp vương quốc của ta mọi người phải tôn kính và run sợ trước Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và tồn tại mãi mãi; vương quốc của Ngài không bao giờ bị tiêu diệt, và sự tể trị của Ngài bất tận. 27. Ngài giải cứu và giải thoát; Ngài thực hiện những dấu lạ và những việc diệu kỳ trên trời dưới đất; là Đấng đã giải cứu Đa-ni-ên khỏi sức mạnh của sư tử.
28. Vì vậy Đa-ni-ên nầy đã thành đạt dưới triều vua Đa-ri-út và vua Si-ru, người Ba Tư.
Bản Dịch 1925
1. Vua Đa-ri-út ưng đặt trong nước một trăm hai mươi quan trấn thủ, để chia nhau trị cả nước, 2. và trên họ có ba quan thượng thơ, mà một là Đa-ni-ên. Các quan trấn thủ phải khai trình với ba quan đó, hầu cho vua khỏi chịu một sự tổn hại nào. 3. Vả, Đa-ni-ên lại trổi hơn hai quan thượng thơ kia và các quan trấn thủ, vì người có linh tánh tốt lành; thì vua định lập người trên cả nước.
4. Các quan thượng thơ và trấn thủ bèn tìm cớ kiện Đa-ni-ên về việc nước; nhưng họ không thể tìm được một cớ nào, hay một sự xấu nào của người, bởi người là trung thành, trong người chẳng có điều lỗi và cũng chẳng có sự xấu. 5. Vậy những người đó nói rằng: Chúng ta không tìm được một cớ nào mà cáo Đa-ni-ên nầy, nếu chúng ta chẳng tìm trong sự thuộc về luật pháp Đức Chúa Trời nó. 6. Các quan thượng thơ và trấn thủ đó bèn vào chầu vua và tâu rằng: Hỡi vua Đa-ri-út, chúc vua sống đời đời! 7. Hết thảy các quan thượng thơ trong nước, các quan lãnh binh, các quan trấn thủ, các nghị viên và các đại thần đều đồng tình xin vua ra chỉ dụ, lập một cấm lịnh nghiêm nhặt trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin thần nào hay một người nào ngoài vua, thì, hỡi vua, kẻ ấy sẽ phải quăng vào hang sư tử. 8. Bây giờ hỡi vua, hãy lập điều cấm đó và ký tên vào, hầu cho không đổi thay đi, theo như luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, không thể đổi được. 9. Vậy vua Đa-ri-út bèn ký tên lập cấm lịnh đó.
10. Khi Đa-ni-ên nghe rằng chỉ dụ đó đã ký tên rồi, thì về nhà mình (những cửa sổ của phòng người thì mở về hướng Giê-ru-sa-lem). Tại đó, cứ một ngày ba lần, người quì gối xuống, cầu nguyện, xưng tạ trước mặt Đức Chúa Trời mình, như vẫn làm khi trước. 11. Bấy giờ những người đó nhóm lại, thấy Đa-ni-ên đang cầu nguyện nài xin trước mặt Đức Chúa Trời mình. 12. Họ bèn đến chầu vua và tâu cùng vua về cấm lịnh của vua rằng: Hỡi vua, vua chẳng từng ký tên vào một cấm lịnh rằng trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài vua, thì sẽ phải quăng vào hang sư tử đó chăng? Vua trả lời rằng: Sự đó là thật, theo như luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, không thể đổi được. 13. Họ bèn đáp lại và tâu vua rằng: Đa-ni-ên, là một trong những con cái phu tù Giu-đa, không có lòng kiêng nể vua chút nào, hỡi vua, dầu đến cấm lịnh vua đã ký tên cũng vậy; song nó cứ một ngày cầu nguyện ba lần.
14. Khi vua nghe những lời đó, thì lấy làm buồn bã lắm; vua định lòng giải cứu Đa-ni-ên, và mãi đến khi mặt trời lặn, cố hết sức tìm thể để giải cứu người. 15. Nhưng các người đó nhóm lại cùng vua và tâu rằng: Hỡi vua, xin biết rằng theo luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, hễ là cấm lịnh hay chỉ dụ nào mà vua đã lập định rồi, thì không thể thay đổi được. 16. Bấy giờ vua truyền điệu Đa-ni-ên đến, và phải ném người vào hang sư tử. Vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Đức Chúa Trời ngươi là Đấng ngươi hằng hầu việc, sẽ giải cứu ngươi. 17. Người ta bèn đem đến một hòn đá chận nơi cửa hang, và vua đóng ấn mình cùng ấn các đại thần nữa, hầu cho không có điều gì thay đổi được về Đa-ni-ên.
18. Sau đó, vua trở về cung mình, và suốt đêm kiêng ăn, cũng không đem bạn nhạc đến trước mặt mình, và vua không ngủ được. 19. Đoạn, vua dậy sớm, khi hừng sáng, vội vàng đi đến hang sư tử. 20. Khi vua đến gần hang, lấy giọng rầu rĩ mà kêu Đa-ni-ên; vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Hỡi Đa-ni-ên, tôi tớ Đức Chúa Trời hằng sống! Đức Chúa Trời ngươi mà ngươi hằng hầu việc có thể giải cứu ngươi khỏi sư tử được chăng? 21. Bấy giờ Đa-ni-ên tâu cùng vua rằng: Hỡi vua, chúc vua sống đời đời! 22. Đức Chúa Trời tôi đã sai thiên sứ Ngài, và bịt miệng các sư tử, nên chúng nó không làm hại chi đến tôi, bởi tôi đã được nhận là vô tội trước mặt Ngài. Hỡi vua, đối với vua cũng vậy, tôi chẳng từng làm hại gì. 23. Bấy giờ vua mừng rỡ lắm, và truyền đem Đa-ni-ên lên khỏi hang. Vậy Đa-ni-ên được đem lên khỏi hang, và người ta không thấy một vết tích nào trên người, bởi người đã nhờ cậy Đức Chúa Trời mình.
24. Theo lịnh vua, những kẻ đã kiện Đa-ni-ên ấy cùng con cái và vợ họ đều bị điệu đến quăng vào hang sư tử. Khi họ chưa đến dưới đáy hang, thì những sư tử đã vồ lấy và xé xương hết thảy.
25. Bấy giờ, vua Đa-ri-út viết cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng ở khắp trên đất rằng: Nguyền cho sự bình an các ngươi được thêm lên! 26. Ta ban chiếu chỉ rằng, trong khắp miền nước ta, người ta phải run rẩy kính sợ trước mặt Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên; vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và còn đời đời. Nước Ngài không bao giờ bị hủy diệt, và quyền Ngài sẽ còn đến cuối cùng. 27. Ngài cứu rỗi và giải thoát, làm những dấu lạ sự lạ ở trên trời dưới đất, đã cứu Đa-ni-ên khỏi quyền thế sư tử.
28. Đa-ni-ên cứ được thạnh vượng như vậy trong đời vua Đa-ri-út và vua Si-ru là người Phe-rơ-sơ.
Bản Dịch 2011
Âm Mưu Hại Ða-ni-ên
1 Ða-ri-út lấy làm hài lòng bổ nhiệm một trăm hai mươi thống đốc cai trị trên cả vương quốc của ông. 2 Các thống đốc ấy ở dưới quyền của ba quan đại thần, và Ða-ni-ên là một trong ba vị đó. Các thống đốc phải chịu trách nhiệm với ba quan đại thần đó để vua không bị thiệt hại gì. 3 Lúc ấy Ða-ni-ên nổi bật hơn hai vị đại thần kia và các vị thống đốc, vì thần trí phi phàm ở trong ông; do đó vua có ý muốn lập ông làm tể tướng để trị vì trên cả vương quốc. 4 Vì thế các đại thần và các thống đốc tìm mọi cớ để bắt lỗi Ða-ni-ên về công việc triều chính, nhưng họ chẳng tìm được một lý cớ nào, vì ông là một người trung thành, không tham nhũng, và không có lỗi lầm gì. 5 Cuối cùng những người ấy nói với nhau, “Chúng ta không thể tìm ra lỗi lầm nào của ông Ða-ni-ên này hầu tố cáo ông ấy cả, trừ phi chúng ta đi tìm những sơ hở của ông ấy trong việc giữ luật Ðức Chúa Trời của ông ấy.”
6 Vậy các quan đại thần và các thống đốc hẹn nhau cùng đến ra mắt vua, và họ tâu với vua, “Tâu Vua Ða-ri-út! Kính chúc hoàng thượng sống vạn tuế! 7 Tất cả các đại thần, các triều thần, các thống đốc, các mưu sĩ, và các tổng trấn đã đồng ý xin hoàng thượng ban hành một sắc lịnh và lập nó thành một sắc luật bất di bất dịch rằng: Trong vòng ba mươi ngày, hễ ai cầu nguyện với bất cứ thần nào hoặc người nào khác hơn hoàng thượng, tâu hoàng thượng, kẻ ấy sẽ bị quăng vào hang sư tử. 8 Tâu hoàng thượng, bây giờ xin hoàng thượng lập nó thành một sắc luật và ký tên vào văn bản, để nó không bị thay đổi theo như luật của người Mê-đi và người Ba-tư, và nó không bị thu hồi.” 9 Thế là Vua Ða-ri-út ký tên vào văn bản của sắc luật ấy.
Ða-ni-ên Bị Quăng Vào Hang Sư Tử
10 Lúc đó sau khi Ða-ni-ên biết văn bản của sắc luật đã được vua ký, ông về nhà, lên phòng trên lầu, nơi có các cửa sổ mở hướng về Giê-ru-sa-lem, mỗi ngày ba lần, ông quỳ xuống, cầu nguyện, và ca ngợi Ðức Chúa Trời của ông, như ông vẫn thường làm từ trước đến giờ. 11 Bấy giờ những người ấy kéo nhau đến nhà ông. Họ thấy Ða-ni-ên đang cầu nguyện và kêu xin trước mặt Ðức Chúa Trời của ông. 12 Thế là họ vào chầu vua và tâu với vua về sắc luật vua đã ban hành, “Tâu hoàng thượng, chẳng phải hoàng thượng đã ban hành một sắc luật rằng trong vòng ba mươi ngày không ai được cầu nguyện với bất cứ thần nào hoặc người nào khác hơn hoàng thượng, bằng không, kẻ ấy sẽ bị quăng vào hang sư tử sao?”
Vua đáp, “Sắc luật ấy đã ban hành, và theo luật của người Mê-đi và người Ba-tư, sắc luật ấy không thể bị thu hồi.”
13 Bấy giờ họ tâu với vua, “Ða-ni-ên, một trong những kẻ bị lưu đày của dân Giu-đa, đã chẳng coi hoàng thượng ra gì, tâu hoàng thượng. Ông ấy cũng chẳng coi sắc lịnh của hoàng thượng đã ký ra gì, vì ngày nào ông ấy cũng cầu nguyện ba lần.”
14 Khi vua nghe những lời ấy, ông rất đau buồn, và ông vận dụng tâm trí để tìm cách cứu Ða-ni-ên. Ông vật vã suy nghĩ mãi cho đến khi mặt trời lặn để tìm cách cứu Ða-ni-ên. 15 Bấy giờ những người đó họp lại với nhau và đến nói với vua, “Tâu hoàng thượng, chắc hẳn hoàng thượng biết rằng theo luật của người Mê-đi và người Ba-tư, mỗi khi sắc lịnh hay sắc luật đã được nhà vua ban hành thì nó không thể thay đổi được.”
16 Vậy vua ban lịnh. Họ liền đem Ða-ni-ên và quăng ông vào hang sư tử. Vua cất tiếng và nói với Ða-ni-ên, “Cầu xin Ðức Chúa Trời, Ðấng ngươi hằng thờ phượng, giải cứu ngươi.” 17 Sau đó người ta mang một tảng đá lớn đến chận miệng hang. Vua đóng ấn tín của ông trên đó, và các đại thần cũng đóng ấn dấu của họ trên đó, để xác nhận rằng vụ Ða-ni-ên không còn gì thay đổi nữa. 18 Sau đó vua trở về cung điện mình. Tối hôm đó ông không thiết ăn uống gì cả, ông cũng không muốn đem ban nhạc đến giải khuây, và suốt đêm đó ông không ngủ được.
Ða-ni-ên Ðược Cứu Khỏi Hang Sư Tử
19 Sáng hôm sau vua thức dậy thật sớm và vội vàng đi đến hang sư tử. 20 Khi đến gần hang, ông cất tiếng gọi Ða-ni-ên với giọng rất bi thương. Vua cất tiếng và nói với Ða-ni-ên, “Hỡi Ða-ni-ên tôi tớ của Ðức Chúa Trời hằng sống, Ðức Chúa Trời, Ðấng ngươi hằng thờ phượng, có thể giải cứu ngươi khỏi các sư tử chăng?”
21 Bấy giờ Ða-ni-ên trả lời với vua, “Tâu hoàng thượng, kính chúc hoàng thượng sống vạn tuế! 22 Ðức Chúa Trời của hạ thần đã sai thiên sứ của Ngài bịt mồm các sư tử; vì thế chúng không làm gì hại đến hạ thần, vì Ngài thấy hạ thần vô tội trước mặt Ngài, và hạ thần cũng chẳng làm điều gì sai trước mặt hoàng thượng, tâu hoàng thượng.”
23 Bấy giờ vua rất đỗi vui mừng và truyền lịnh đem Ða-ni-ên lên khỏi hang. Vậy Ða-ni-ên được đem lên khỏi hang sư tử. Người ta thấy ông không bị hại một chút gì, vì ông đã tin cậy Ðức Chúa Trời của ông. 24 Kế đó vua truyền lịnh đem những kẻ đã tố cáo Ða-ni-ên đến. Người ta quăng chúng cùng với vợ con chúng vào hang sư tử. Trước khi chúng rơi tới đáy hang, các sư tử đã nhảy lên vồ lấy chúng và xé thây chúng ra từng mảnh.
25 Sau đó Vua Ða-ri-út viết, “Gởi đến các dân, các nước, và các ngữ tộc sống trên khắp đất. Cầu mong các ngươi được bình an thịnh vượng bội phần. 26 Ta ban hành chiếu chỉ này để truyền cho mọi người trong vương quốc phải run rẩy và kính sợ trước mặt Ðức Chúa Trời của Ða-ni-ên, vì Ngài là Ðức Chúa Trời hằng sống và tồn tại đời đời. Vương quốc Ngài sẽ không bao giờ bị diệt mất, và quyền bính Ngài sẽ không bao giờ tận cùng. 27 Ngài giải thoát và giải cứu. Ngài làm các dấu kỳ và các phép lạ trên trời và dưới đất. Ngài đã giải thoát Ða-ni-ên khỏi các nanh vuốt của sư tử.”
28 Vậy Ða-ni-ên được thịnh vượng trong triều đại của Ða-ri-út và trong triều đại của Sy-ru người Ba-tư.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành