Ê-xê-chi-ên: Chương 42

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB26C042)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch Việt Ngữ

1. Người dẫn tôi đến sân ngoài theo lối đi về phía bắc, rồi đem tôi đến các phòng đối diện với sân đền, tức là đối diện với tòa nhà về phía bắc. 2. Mặt tiền của nhà hướng về phía bắc rộng một trăm cu-bít, chiều ngang năm mươi cu-bít. 3. Trên một khoảng rộng hai mươi cu-bít đối diện với sân trong và nền đá sân ngoài, có các phòng ba tầng chồng lên nhau. 4. Trước các phòng là một lối đi rộng mười cu-bít, có khoảng cách một cu-bít với những cửa hướng về phía bắc. 5. Những phòng trên thì hẹp hơn những phòng dưới và những phòng giữa, bởi vì các hành lang khi lên trên thì rộng hơn. 6. Vì các phòng trong ba tầng nhưng không có cột như các cột của sân, cho nên các phòng ở trên thì hẹp hơn các phòng ở dưới đất và phòng ở tầng giữa. 7. Bức tường bên ngoài, chạy dọc theo các phòng về phía hành lang ngoài và đối diện với các phòng, dài năm mươi cu-bít. 8. Vì chiều dài của các phòng ở sân ngoài là năm mươi cu-bít, trong khi các phòng đối diện đền thờ là một trăm cu-bít. 9. Phía dưới các phòng này có một lối vào ở phía đông dành cho những người từ hành lang ngoài đi vào.

10. Có những phòng dọc theo chiều ngang của bức tường của sân hướng về phía đông, đối diện với khoảng trống và đối diện với tòa nhà. 11. Có một con đường phía trước các phòng đó cũng như phía trước các phòng hướng về phía bắc. Tất cả các phòng đó đều có chiều dài và chiều ngang bằng nhau. Tất cả các lối ra, lối vào đều có kích thước giống nhau. 12. Các cửa phòng phía nam cũng giống như vậy. Ở đầu đường, có một cái cửa để người ta đi vào, đối diện với bức tường ở phía đông.

13. Người đó nói với tôi: Các phòng ở phía bắc và các phòng ở phía nam ở ngay trước sân là những phòng thánh. Đó là nơi các tư tế đến gần Đức Giê-hô-va sẽ ăn những vật cực thánh. Họ sẽ cất giữ những lễ vật cực thánh như các của lễ chay, các của lễ chuộc tội, và các của lễ chuộc lỗi trong những phòng đó. 14. Một khi các tư tế đã vào trong khu vực thánh, họ không được phép đi ra sân ngoài cho đến khi họ cởi bộ lễ phục mà họ đã mặc để tế lễ ra, rồi để lại trong đó, bởi vì đó là những vật thánh. Họ phải thay y phục khác trước khi đến gần nơi dành cho dân chúng.

15. Khi người đó đo xong bên trong của đền thờ, người dẫn tôi đi qua cánh cổng hướng về phía đông, để đo chung quanh. 16. Người đo cạnh ở phía đông bằng cây sào, đo được năm trăm sào, rồi dùng cây sào để đo chung quanh. 17. Người đo cạnh ở phía bắc là năm trăm cây sào, rồi dùng cây sào để đo chung quanh. 18. Người đo cạnh ở phía nam bằng cây sào được năm trăm cây sào. 19. Người quay về phía tây, đo bằng cây sào được năm trăm cây sào. 20. Người đo chung quanh cả bốn phía, có tường bao bọc chung quanh để phân cách giữa nơi thánh và nơi phàm tục, chiều dài là năm trăm cây sào, và chiều rộng là năm trăm cây sào.

Bản Dịch 1925

1. Đoạn người dắt ta vào hành lang ngoài, về phía bắc, và đem ta vào trong Cái phòng ở trước mặt khoảng đất biệt riêng, đối với nhà hướng bắc. 2. Trên trước mặt là nơi có cửa vào về phía bắc, những phòng ấy choán bề dài một trăm cu-đê, bề ngang năm mươi cu-đê. 3. Các phòng đối nhau, trên một bề dài hai mươi cu-đê, nơi hành lang trong, đối với nền lót đã của hành lang ngoài, tại đó có những nhà cầu ba tầng. 4. Phía trước các phòng có đường đi rộng mười cu-đê, và phía trong có một con đường rộng một cu-đê; những cửa phòng đều xây về phía bắc. 5. Những phòng trên hẹp hơn những phòng dưới và những phòng giữa, vì các nhà cầu choán chỗ của những phòng trên. 6. có ba tầng, song không có cột như cột của hành lang; cho nên những phòng trên và những phòng giữa hẹp hơn những phòng dưới. 7. Bức tường ngoài đi dọc theo các phòng về hướng hành lang ngoài, trước mặt các phòng, có năm mươi cu-đê bề dài; 8. vì bề dài của các phòng trong hành lang ngoài là năm mươi cu-đê, còn về trước mặt đền thờ thì có một trăm cu-đê. 9. Dưới các phòng ấy, về phía đông, có một cửa vào cho những người từ hành lang ngoài mà đến.

10. Cũng có những phòng trên bề ngang tường hành lang, về phía đông, ngay trước mặt khoảng đất biệt riêng và nhà. 11. Có một con đường trước các phòng ấy, cũng như trước các phòng phía bắc; hết thảy các phòng ấy bề dài bề ngang bằng nhau, đường ra lối vào và hình thế cũng giống nhau. 12. Các cửa phòng phía nam cũng đồng như vậy. Nơi vào con đường, trước mặt tường phía đông đối ngay, có một cái cửa, người ta vào bởi đó. 13. Bấy giờ người bảo ta rằng: Các phòng phía bắc và các phòng phía nam, ngay trước khoảng đất biệt riêng, là những phòng thánh, là nơi các thầy tế lễ gần Đức Giê-hô-va ăn những vật rất thánh. Các thầy ấy sẽ để đó những vật rất thánh, của lễ chay, của lễ chuộc sự mắc lỗi, và của lễ chuộc tội; vì nơi đó là thánh. 14. Khi các thầy tế lễ đã vào đó rồi, không cởi tại đó những áo mình mặc mà hầu việc, thì không được từ nơi thánh ra đặng đi đến nơi hành lang ngoài nữa, vì những áo ấy là thánh, các thầy ấy phải thay áo khác đặng đến gần nơi dân sự.

15. Sau khi đã đo phía trong nhà xong rồi, người đem ta ra bởi hiên cửa phía đông, rồi người đo quanh vòng tròn. 16. Người dùng cần đo phía đông, có năm trăm cần. 17. Người đo phía bắc bằng cái cần dùng để đo, có năm trăm cần. 18. Người đo phía nam bằng cái cần dùng để đo, có năm trăm cần. 19. Người trở qua phía tây đặng đo, có năm trăm cần. 20. Người đo bốn phía tường bao chung quanh nhà, bề dài là năm trăm cần, bề rộng là năm trăm. Tường nầy dùng để phân biệt nơi thánh với nơi tục.

Bản Dịch 2011

Các Tòa Nhà trong Khu Ðền Thờ và Bức Tường Quanh Sân

1 Kế đó người ấy đem tôi ra sân ngoài ở hướng bắc, và đem tôi đến các phòng đối diện với sân đền thờ và đối diện với đền thờ ở hướng bắc. 2 Mặt tiền của tòa nhà ở hướng bắc dài năm mươi tám mét, và rộng hai mươi chín mét. 3 Có một dãy phòng ba tầng đối diện với một khoảng trống chừng mười một mét rưỡi ở sân trong, và một dãy phòng ba tầng nữa đối diện với sân ngoài có nền lát đá. 4 Ở giữa hai dãy phòng ba tầng đó là một lối đi rộng gần sáu mét và dài khoảng năm mươi tám mét. Các cửa phòng của dãy ấy đều hướng về phương bắc. 5 Các phòng ở tầng trên nhỏ hơn các phòng ở tầng dưới và tầng giữa của tòa nhà, vì mỗi dãy phòng ở tầng trên phải xây thụt vô để chừa chỗ làm hành lang. 6 Số là tòa nhà có ba tầng, nhưng không có các trụ như các trụ ở các hành lang, hai tầng trên phải xây thụt vô để gối đầu vào tường, vì thế các phòng ở các tầng trên nhỏ hơn các phòng ở tầng dưới và tầng giữa. 7 Có một bức tường ở bên ngoài chạy dọc theo dãy phòng, để ngăn cách dãy phòng với sân ngoài; tường ấy dài khoảng hai mươi chín mét. 8 Bức tường ấy nối dài với dãy phòng ở ngoài sân nên dài hai mươi chín mét, trong khi dãy phòng trong nằm dọc theo bên cạnh đền thờ thì dài năm mươi tám mét. 9 Ở tầng dưới cùng có một cái cổng nằm về hướng đông, để người ở sân ngoài có thể vào khu có các dãy phòng.

10 Về phía nam, dọc theo bức tường dày của đền thờ chạy về hướng đông, đối diện với sân ngoài, và dựa sát vào đền thờ có các phòng. 11 Các phòng đó cũng có các hành lang phía trước. Các phòng đó đều giống các phòng ở phía bắc, chiều dài và chiều rộng đều như nhau, các lối ra vào và cách sắp đặt vị trí các phòng cũng giống nhau. Các cổng cũng giống các cổng ở phía bắc. 12 Các cửa của các phòng cũng giống các cửa của các phòng ở phía bắc. Khu vực phía nam ấy cũng có tường ngăn cách, và ở đầu khu vực, trong bức tường ở hướng đông có một cổng, để người ta có thể ra vào khu vực đó.

13 Bấy giờ người ấy nói với tôi, “Các dãy phòng ở phía bắc và ở phía nam sát bên cạnh đền thờ được dành riêng cho các tư tế. Các tư tế đến gần CHÚA sẽ ăn những lễ vật cực thánh trong các phòng đó. Họ cất giữ các lễ vật cực thánh như các của lễ chay, các của lễ chuộc tội, và các của lễ chuộc lỗi trong các phòng đó. 14 Một khi các tư tế đã vào trong khu vực thánh, họ không được phép đi ra sân ngoài cho đến khi họ cổi bộ lễ phục mà họ đã mặc để tế lễ ra và để lại trong đó, vì đó là những vật thánh. Họ phải mặc y phục riêng của họ trước khi đi ra khu vực công cộng để tiếp xúc với dân.”

15 Khi người ấy đã đo xong các kích thước ở bên trong đền thờ, người ấy đem tôi ra bên ngoài, qua cổng phía đông, để đo chung quanh đền thờ. 16 Người ấy lấy cây đo và đo cạnh phía đông, hai trăm chín mươi mét theo kích thước của cây đo ấy. 17 Sau đó người ấy đo cạnh phía bắc, hai trăm chín mươi mét theo kích thước của cây đo ấy. 18 Sau đó người ấy đo cạnh phía nam, hai trăm chín mươi mét theo kích thước của cây đo ấy. 19 Sau đó người ấy đo cạnh phía tây, hai trăm chín mươi mét theo kích thước của cây đo ấy. 20 Người ấy đo cả bốn phía. Khu đền thờ có một bức tường bao quanh tứ phía, hai trăm chín mươi mét chiều dọc và hai trăm chín mươi mét chiều ngang, để ngăn cách giữa khu vực thánh với nơi phàm tục.

Tài Liệu