Nê-hê-mi: Chương 1

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB16C001)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch Việt Ngữ

1. Lời của Nê-hê-mi, con trai Ha-ca-lia.

Vào tháng Kít-lêu, năm thứ hai mươi, khi tôi đang ở tại trấn thành Su-sơ, 2. một trong những anh em của tôi là Ha-na-ni đã đến cùng với những người từ Giu-đa. Tôi hỏi thăm họ về những người Do Thái đã trốn thoát, là những anh em của tôi còn sót lại không bị lưu đày, và về Giê-ru-sa-lem.

3. Họ nói với tôi rằng: “Những người thoát cảnh lưu đày, còn lại ở trong tỉnh, bị kiệt quệ và tủi nhục lắm, còn tường thành của Giê-ru-sa-lem đã bị đổ nát, và những cổng của nó đã bị lửa thiêu hủy.”

4. Khi nghe những lời ấy, tôi ngồi xuống, rơi lệ, và than khóc mấy ngày; tôi kiêng ăn và cầu nguyện với Đức Chúa Trời của các tầng trời. 5. Và tôi đã thưa rằng:

“Con cầu xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các tầng trời, tức Đức Chúa Trời vĩ đại và đáng kính, là Đấng giữ lời giao ước và lòng nhân từ của Ngài với người nào kính mến Ngài và vâng giữ các điều răn của Ngài! 6. Xin tai Ngài lắng nghe và mắt Ngài mở ra để Ngài nghe lời cầu nguyện của con, là đầy tớ Ngài, hiện đang cầu xin với Ngài, và ngày đêm cầu nguyện vì dân Y-sơ-ra-ên, là các đầy tớ của Ngài, cùng xưng nhận những tội lỗi của chúng con là dân Y-sơ-ra-ên đã phạm với Ngài. Cả con và tổ phụ của con đã phạm tội. 7. Chúng con đã làm những việc đồi bại chống lại Ngài, không vâng giữ các điều răn, quy định, và luật lệ mà Ngài đã truyền cho Môi-se, đầy tớ Ngài. 8. Con cầu xin Ngài nhớ lại lời Ngài đã truyền cho Môi-se, đầy tớ Ngài: ‘Nếu các con phạm tội, Ta sẽ rải các con giữa các quốc gia; 9. nhưng nếu các con trở về cùng Ta, và vâng giữ các điều răn của Ta, cùng thực hiện những điều đó, thì dù những kẻ bị tan lạc của các con ở tận cuối trời, Ta cũng sẽ gom họ lại từ nơi đó và đem họ đến nơi mà Ta đã chọn để danh Ta ngự tại đó.’ 10. Giờ đây, những đầy tớ Ngài và dân của Ngài - là những người mà Ngài đã chuộc bằng uy quyền vĩ đại và cánh tay hùng mạnh của Ngài. 11. Chúa ôi! Con cầu xin tai của Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của con là đầy tớ Ngài và lời cầu nguyện của những đầy tớ Ngài, là những người đang khao khát tôn kính danh Ngài. Con cầu xin Ngài cho con, là đầy tớ Ngài, hôm nay được may mắn và được ơn thương xót trước mặt người này.”

Vì tôi là quan dâng rượu cho vua.

Bản Dịch Đại Chúng

Đây là những lời của Nê-hê-mi, con trai Ha-ca-lia.

Vào tháng Kít-lêu, trong năm thứ hai mươi, khi tôi đang ở tại trấn thành Su-sơ, một trong những anh em của tôi là Ha-na-ni đã đến cùng với những người từ Giu-đa. Tôi hỏi thăm họ về những người Do Thái đã trốn thoát, là những anh em của tôi còn sót lại không bị lưu đày, và về Giê-ru-sa-lem.

Họ nói với tôi rằng: “Những người thoát cảnh lưu đày, còn lại ở trong tỉnh, bị kiệt quệ và tủi nhục lắm, còn tường thành của Giê-ru-sa-lem đã bị đổ nát, và những cổng của nó đã bị lửa thiêu hủy.”

Khi nghe những lời ấy, tôi ngồi xuống, rơi lệ, và khóc như cư tang mấy ngày; tôi kiêng ăn và cầu nguyện với Đức Chúa Trời trên trời. Và tôi đã thưa rằng:

“Con cầu xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời trên trời, tức Đức Chúa Trời vĩ đại và đáng kính, là Đấng giữ lời giao ước và lòng nhân từ của Ngài với người nào kính mến Ngài và vâng giữ các điều răn của Ngài! Xin tai Ngài lắng nghe và mắt Ngài mở ra để Ngài nghe lời cầu nguyện của con, là đầy tớ Ngài, hiện đang cầu xin với Ngài, và ngày đêm cầu nguyện vì dân Y-sơ-ra-ên, là các đầy tớ của Ngài, cùng xưng nhận những tội lỗi của chúng con là dân Y-sơ-ra-ên đã phạm với Ngài. Cả con và tổ phụ của con đã phạm tội. Chúng con đã làm những việc đồi bại chống lại Ngài, không vâng giữ các điều răn, quy định, và luật lệ mà Ngài đã truyền cho Môi-se, đầy tớ Ngài. Con cầu xin Ngài nhớ lại lời Ngài đã truyền cho Môi-se, đầy tớ Ngài: ‘Nếu các con phạm tội, Ta sẽ rải các con giữa các quốc gia; nhưng nếu các con trở về cùng Ta, vâng giữ các điều răn của Ta, và thực hiện những điều đó, thì dù những kẻ bị tan lạc của các con ở tận cuối trời, Ta cũng sẽ gom họ lại từ nơi đó và đem họ đến nơi mà Ta đã chọn, để danh Ta ngự tại đó.’ Giờ đây, những đầy tớ Ngài và dân của Ngài - là những người mà Ngài đã chuộc bằng uy quyền vĩ đại và cánh tay hùng mạnh của Ngài. Chúa ôi! Con cầu xin tai của Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của con là đầy tớ Ngài và lời cầu nguyện của những đầy tớ Ngài, là những người đang khao khát tôn kính danh Ngài. Con cầu xin Ngài cho con, là đầy tớ Ngài, hôm nay được may mắn và được ơn thương xót trước mặt người này.”

Vì tôi là quan dâng rượu cho vua.

Bản Dịch 1925

1. Lời của Nê-hê-mi, con trai Ha-ca-lia.

Năm thứ hai mươi, nhằm tháng Kít-lơ, xảy khi tôi đang ở tại kinh đô Su-sơ, 2. có một người trong anh em tôi tên là Ha-na-ni với vài người Giu-đa đến tôi hỏi thăm chúng về dân Giu-đa đã được thoát khỏi, tức những kẻ đã bị bắt làm phu tù còn sót lại, và hỏi luôn về những việc Giê-ru-sa-lem. 3. Các người ấy nói với tôi rằng: Những kẻ bị bắt làm phu tù còn sót ở lại trong tỉnh, bị tai nạn và sỉ nhục lắm; còn vách thành của Giê-ru-sa-lem thì hư nát và các cửa nó đã bị lửa cháy.

4. Khi tôi nghe các lời ấy, bèn ngồi mà khóc, cư tang mấy ngày; tôi cữ ăn và cầu nguyện Đức Chúa của các từng trời, mà rằng: 5. Ôi! Giê-hô-va Đức Chúa của các từng trời, tức Đức Chúa Trời cực đại và đáng kinh, hay giữ lời giao ước và lòng nhân từ cùng kẻ nào kính mến Ngài và vâng giữ các điều răn của Ngài! 6. Tôi xin mắt Chúa hãy đoái đến và lỗ tai Chúa lắng nghe lời cầu nguyện của kẻ đầy tớ Chúa mà tôi hiện lúc này hằng ngày và đêm cầu nguyện vì dân Y-sơ-ra-ên, là các tôi tớ Chúa, ở tại trước mặt Chúa và xưng những tội của dân Y-sơ-ra-ên mà chúng tôi đã phạm với Ngài. Và lại tôi và nhà của tổ phụ tôi cũng có phạm tội. 7. Chúng tôi có làm rất ác tệ nghịch cùng Chúa, không vâng giữ điều răn giới mạng và luật lệ của Chúa đã phán dạy Môi-se, là kẻ tôi tớ Chúa. 8. Xin Chúa hãy nhớ lại lời Chúa đã phán dạy Môi-se, kẻ tôi tớ Chúa, rằng: Nếu các ngươi phạm tội, ta sẽ tan rải các ngươi giữa các dân tộc; 9. còn nếu các ngươi trở lại cùng ta, gìn giữ làm theo các điều răn của ta, dầu khi kẻ bị tan lạc của các ngươi ở cuối tận trời, ta cũng sẽ từ đó chiêu tập chúng nó về, và dẫn chúng nó đến nơi ta đã chọn đặng cho danh ta ngự tại đó. 10. Vả, chúng là các tôi tớ và dân sự của Chúa, mà Chúa đã cậy quyền năng và tay mạnh mẽ mà chuộc lại. 11. Chúa ôi! tôi nài xin Chúa hãy lắng tai nghe lời cầu nguyện của các tôi tớ Ngài vẫn vui lòng kính sợ danh Ngài; ngày nay xin Chúa hãy làm cho tôi tớ Chúa được may mắn, và ban cho nó tìm được sự nhân từ trước mặt người nầy. Vả, bấy giờ tôi làm quan tửu chánh của vua.

Bản Dịch 2011

Nê-hê-mi Cầu Nguyện cho Dân Tộc Ông

1 Ðây là những lời của Nê-hê-mi con của Ha-ca-li-a:

Vào tháng Kích-lê của năm thứ hai mươi, khi tôi đang ở trong cung điện của vua tại Su-sa, 2 một người trong số các anh em của tôi tên là Ha-na-ni và một vài người từ Giu-đa đến thăm tôi. Tôi hỏi họ về tình hình của những người Do-thái còn sót lại, tức những người không bị bắt đem đi lưu đày, và tôi cũng hỏi thăm họ về Giê-ru-sa-lem.

3 Họ đáp, “Những người Do-thái còn sót lại trong tỉnh, tức những người không bị bắt đem đi lưu đày, đang ở trong tình cảnh rất khốn khó và nhục nhã. Bức tường bao quanh Thành Giê-ru-sa-lem đã bị sụp đổ, còn các cổng thành đều đã bị lửa thiêu rụi.”

4 Khi nghe những lời ấy xong, tôi ngồi và khóc. Tôi rầu rĩ như người thọ tang suốt mấy ngày. Tôi kiêng ăn và dâng lời cầu nguyện lên Ðức Chúa Trời trên trời.

5 Tôi nói, “Lạy CHÚA, Ðức Chúa Trời trên trời, Ðức Chúa Trời vĩ đại và đáng sợ, Ðấng giữ giao ước và bày tỏ tình thương đối với ai yêu kính Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài, 6 cầu xin Ngài lắng tai nghe và mở mắt nhìn, để nhậm lời cầu nguyện của con, tôi tớ Ngài, đang ngày đêm dâng lên vì các tôi tớ Ngài là dân I-sơ-ra-ên. Con xưng nhận các tội lỗi của dân I-sơ-ra-ên mà chúng con đã phạm đối với Ngài, kể cả nhà của tổ tiên con và chính con đã phạm. 7 Chúng con đã làm đau lòng Ngài rất nhiều; chúng con đã không vâng giữ các điều răn, mạng lịnh, và luật lệ mà Ngài đã truyền cho Môi-se tôi tớ Ngài. 8 Cầu xin Ngài nhớ lại lời Ngài đã truyền cho Môi-se tôi tớ Ngài rằng, ‘Nếu các ngươi bất trung, Ta sẽ tung rải các ngươi ra giữa các dân; 9 nhưng nếu các ngươi trở về với Ta, gìn giữ, và vâng theo các điều răn của Ta, thì dù những kẻ bị lưu đày của các ngươi ở xa xăm bất cứ nơi nào, Ta cũng sẽ tập họp chúng lại ở đó mà đem chúng về nơi Ta đã chọn để đặt danh Ta.’ 10 Họ là các tôi tớ Ngài và dân Ngài; họ là những người Ngài đã chuộc bằng quyền năng lớn lao và bằng cánh tay mạnh mẽ của Ngài. 11 Lạy Chúa, xin lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và lời cầu nguyện của các con cái Ngài, những người lấy làm vui mà kính sợ danh Ngài. Cầu xin Ngài cho con được thành công hôm nay và cho con được ơn trước mặt người này.”

Bấy giờ, tôi đang làm quan dâng rượu cho vua.

Tài Liệu Nghiên Cứu Kinh Thánh

Tài Liệu

  • Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
  • Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành