Ê-xơ-ra: Chương 1

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB15C001)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch Việt Ngữ

1. Vào năm thứ nhất của triều Si-ru, vua Ba Tư, để ứng nghiệm lời Đức Giê-hô-va đã phán bởi miệng Giê-rê-mi, Đức Giê-hô-va khuấy động lòng Si-ru, vua Ba Tư, khiến ông công bố trên toàn vương quốc mình một sắc chỉ viết rằng:

2. “Si-ru, vua Ba Tư, phán: ‘Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các tầng trời, đã ban cho tất cả các vương quốc trên đất; Ngài truyền cho ta xây cho Ngài một đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, trong xứ Giu-đa. 3. Ai trong các ngươi là dân Ngài – xin Đức Chúa Trời ở cùng người ấy - hãy đi lên Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa để xây đền thờ của Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Ngài là Đức Chúa Trời ngự tại Giê-ru-sa-lem. 4. Những người ở tại bất kỳ nơi nào có người bị lưu đày còn sống sót, phải giúp họ bằng bạc, vàng, của cải, súc vật, bên cạnh những lễ vật lạc hiến cho đền thờ của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.’”

5. Sau đó, các trưởng tộc của Giu-đa và Bên-gia-min, những thầy tế lễ và người Lê-vi, cùng tất cả những người mà Đức Chúa Trời thúc giục trong lòng, đã chỗi dậy để đi xây đền thờ của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem. 6. Tất cả những người lân cận họ đã hỗ trợ tiếp tay cho họ những vật dụng bằng bạc, vàng, của cải, súc vật và những bửu vật, bên cạnh tất cả những lễ vật lạc hiến khác.

7. Vua Si-ru cũng trả lại những vật dụng của đền thờ Đức Giê-hô-va mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đem khỏi Giê-ru-sa-lem và để trong đền thờ các thần của mình. 8. Si-ru, vua Ba Tư, truyền thủ quỹ Mít-rê-đát, lấy các vật dụng đó ra, đếm và giao cho Sết-ba-xa, lãnh tụ Giu-đa. 9. Đây là con số: ba mươi chậu bằng vàng, một nghìn chậu bằng bạc, hai mươi chín con dao, 10. ba mươi chén bằng vàng, bốn trăm mười chén bằng bạc loại hạng nhì, và một nghìn vật dụng khác. 11. Tổng số những vật dụng bằng vàng và bạc là năm nghìn bốn trăm cái. Sết-ba-xa mang theo tất cả các vật đó cùng với những người lưu đày từ Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem.

Bản Dịch 1925

1. Năm thứ nhất đời Si-ru, vua nước Phe-rơ-sơ trị vì, Đức Giê-hô-va muốn làm cho ứng nghiệm lời Ngài đã cậy miệng Giê-rê-mi mà phán ra, nên Ngài cảm động lòng Si-ru, vua Phe-rơ-sơ tuyên truyền trong khắp nước mình, và cũng ra sắc chỉ rằng: 2. Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, nói như vầy: Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban các nước thế gian cho ta, và chính Ngài có biểu ta xây cất cho Ngài một đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, trong xứ Giu-đa. 3. Trong các ngươi, phàm ai thuộc về dân sự Ngài, khá trở lên Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa, đặng cất lại đền thờ Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vẫn ngự tại Giê-ru-sa-lem. Nguyện Đức Chúa Trời người ấy ở cùng người! 4. Hễ dân Giu-đa còn sót lại, mặc dầu ở đâu, thì bổn dân của nơi họ ở, phải tiếp trợ họ bằng bạc, vàng, của cải, súc vật, không kể những của lễ lạc hiến về đền của Đức Chúa Trời ở tại Giê-ru-sa-lem.

5. Bấy giờ những trưởng tộc của Giu-đa và Bên-gia-min, những thầy tế lễ, và người Lê-vi, cả thảy những người nào Đức Chúa Trời cảm động lòng có ý đi lên xây cất đền thờ của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, bèn chổi dậy. 6. Các người lân cận chúng đều tiếp trợ chúng, cho những vật bằng bạc, bằng vàng, của cải, súc vật, và những vật quí báu, bất kể các của lạc hiến khác.

7. Vua Si-ru cũng trả lại những khí dụng của đền thờ Đức Giê-hô-va, mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đem đi khỏi Giê-ru-sa-lem và để trong đền thờ của thần người. 8. Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, truyền Mít-rê-đát, người thủ quỹ, lấy các khí dụng ấy ra, đếm và giao cho Sết-ba-xa, quan trưởng của Giu-đa. 9. Nầy là số của các khí dụng ấy: ba mươi cái chậu vàng, ngàn cái chậu bạc, hai mươi chín con dao, 10. ba mươi cái chén vàng, bốn trăm mười cái chén bạc thứ hạng nhì, một ngàn cái khí dụng khác. 11. Hết thảy những khí dụng bằng vàng và bạc số là năm ngàn bốn trăm cái. Khi những người bị bắt làm phu tù ở Ba-by-lôn được dẫn về Giê-ru-sa-lem thì Sết-ba-xa đem lên luôn hết thảy vật ấy.

Bản Dịch 2011

Chấm Dứt Cuộc Lưu Ðày

1 Vào năm thứ nhất của triều đại Sy-ru vua Ba-tư, để lời CHÚA đã phán qua miệng Giê-rê-mi được ứng nghiệm, CHÚA cảm động lòng Sy-ru vua Ba-tư khiến ông ban hành một chiếu chỉ trong khắp đế quốc của ông. Chiếu chỉ ấy viết rằng,

2 “Sy-ru vua Ba-tư truyền thế này: CHÚA, Ðức Chúa Trời trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc trên đất. Ngài đã truyền cho ta phải xây cho Ngài một Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa. 3 Vậy ai trong các ngươi là con dân Ngài, nguyền xin Ðức Chúa Trời của người ấy ở với người ấy. Người ấy hãy đi lên Giê-ru-sa-lem ở Giu-đa để xây một Ðền Thờ cho CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên; Ngài là Ðức Chúa Trời ngự tại Giê-ru-sa-lem. 4 Những ai ở các nơi có người bị lưu đày còn sống sót hãy lấy bạc, vàng, của cải, và súc vật của mình giúp đỡ những người ấy, ngoài các của lễ lạc ý dâng cho Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.”

5 Bấy giờ các trưởng tộc của Giu-đa và Bên-gia-min, các tư tế và những người Lê-vi, những người đã được Ðức Chúa Trời giục lòng, bèn đứng dậy và trở về để xây dựng Ðền Thờ cho CHÚA ở Giê-ru-sa-lem. 6 Tất cả những người chung quanh họ đều ủng hộ họ bằng các vật dụng bằng bạc và bằng vàng, của cải, súc vật, và các bửu vật, ngoài các của lễ lạc ý họ gởi dâng. 7 Ngoài ra Vua Sy-ru cũng lấy ra các vật dụng thuộc về Ðền Thờ CHÚA mà Nê-bu-cát-nê-xa đã lấy từ Giê-ru-sa-lem đem về đặt trong đền thờ các thần ông ấy; 8 Sy-ru vua Ba-tư truyền cho Quan Thủ Kho Mít-rê-đát đem các vật dụng ấy ra, kiểm kê, và trao tất cả cho Sết-ba-xa thủ lãnh của dân Do-thái. 9 Ðây là số lượng các vật dụng ấy: ba mươi chén vàng, một ngàn chén bạc, hai mươi chín con dao, 10 ba mươi bát vàng, bốn trăm mười bát bạc hạng thường, và một ngàn vật dụng khác. 11 Tổng cộng được năm ngàn bốn trăm vật dụng bằng vàng và bằng bạc. Sết-ba-xa đem tất cả các vật dụng ấy và dẫn theo những người được phóng thích khỏi trình trạng lưu đày từ giã Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem.

Tài Liệu

  • Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
  • Thánh Kinh Lược Khảo - Nhà Xuất Bản Tin Lành Sài Gòn (1970)