Karl Gustav Boberg

Từ Thư Viện Tin Lành
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm
Karl Gustav Boberg

Karl Gustav Boberg (1859-1940) là tác giả của bài thánh ca How Great Thou Art. Tên của ông thường được viết trong tiếng Anh là Carl Boberg. Carl Boberg là một nhà thơ, nhà văn, là thượng nghị sĩ và cũng là một mục sư người Thụy Điển.

Gia Thế

Carl Boberg sinh ngày 16/8/1855 tại thị trấn Mönsterås, quận Kalmar, tỉnh Småland, Thụy Điển. Carl Boberg là con trai của ông bà Olaf và Bittner Boberg. Cụ Olaf Boberg, cha của Carl Boberg, là một người thợ mộc. Từ thời trẻ, Carl Boberg làm thủy thủ một thời gian ngắn. Năm 19 tuổi, Carl Boberg theo học thần học tại Kristinehamm. Sau khi tốt nghiệp, mặc dù dòng họ Boberg là tín hữu Lutheran nhưng Carl Boberg đã nhận lời làm mục sư cho Hội Thánh Mission Covenant tại Mönsterås từ năm 1881 đến 1889.

Nghề Nghiệp

Bên cạnh chức vụ hầu việc Chúa, Mục sư Carl Boberg cũng viết văn và làm thơ. Mục sư Carl Boberg làm chủ nhiệm tờ Sanningsvittnet (Chứng Nhân Chân Lý), một tuần báo Tin Lành, từ năm 1890 đến 1916. Từ năm 1912 đến 1931, Mục sư Carl Boberg đắc cử và trở thành thượng nghị sĩ của Quốc Hội Thụy Điển. Ông về với Chúa vào năm 1940, để lại hơn 60 thi ca và thánh ca.

Sáng Tác O Store Gud

Mục sư Carl Boberg kể lại rằng ông đã sáng tác bài thánh ca How Great Thou Art vào năm 1885. Vào một chiều Chúa Nhật, sau lễ thờ phượng, Mục sư Carl Boberg cùng vài người thân rời nhà thờ đang trên đường trở về nhà. Nắng chiều tại Thụy Điển, nơi gần cực bắc của trái đất, có những nét đẹp lung linh, kỳ ảo. Nắng ấm của mùa xuân làm chim hót khắp nơi. Thình lình có một cơn giông nổi lên; sấm vang rền, chớp lấp lánh, sấm sét trên khắp tầng mây. Gió thổi mạnh trên thảo nguyên khiến đồng cỏ và những cánh đồng lúa mì xao động như mặt biển đầy sóng. Mọi người vội vàng tìm chỗ trú ẩn, lánh cơn giông. Không bao lâu sau đó mưa kéo đến đem lại sự tươi mát. Một chặp sau, cơn bão qua đi, một cầu vồng xuất hiện trên bầu trời.

Khi về đến nhà, Mục sư Carl Boberg mở cửa sổ, nhìn ra vịnh Mönsterås phẳng lặng như gương. Ông nghe tiếng chuông nhà thờ ngân vang trong cái tĩnh lặng của ban chiều. Tối hôm đó, Mục sư Carl Boberg sáng tác bài thơ O Store Gud.

Nội dung của bài thơ O Store Gud lấy ý từ Thi Thiên 8:1, 3-4, và Thi Thiên 19:1-4. Tác giả Thi Thiên đã viết như sau: “Các tầng trời rao truyền vinh hiển của Ðức Chúa Trời; bầu trời công bố công việc tay Ngài làm. Ngày ngày truyền rao sứ điệp, đêm đêm bày tỏ tri thức; không dùng lời, chẳng cần tiếng, chẳng ai nghe giọng nói của chúng ra sao nhưng âm thanh của chúng đã lan truyền khắp đất, lời của chúng đã vang đến cùng tận địa cầu.” (Thi Thiên 19:1-4)

“Lạy CHÚA! Chúa của chúng con. Danh Ngài thật oai nghi trên khắp đất biết bao! Ngài đã đặt vinh quang của Ngài trên các tầng trời. Khi con lặng ngắm cõi trời cao: công việc của ngón tay Ngài; mặt trăng và các ngôi sao mà Ngài đã đặt trên không trung. Loài người là gì mà Ngài phải quan tâm đến? Con của loài người là chi mà Ngài phải bận lòng?”(Thi Thiên 8:1,3-4).

Dựa trên ý nghĩa của Lời Chúa trong Thi Thiên, cộng với quan sát các hiện tượng thiên nhiên vào chiều hôm đó Mục sư Carl Boberg đã sáng tác bài thơ O Store Gud.

Mục sư Carl Boberg cho phổ biến bài thơ O Store Gud trên tờ Mönsterås Tidningen vào ngày 13/3/1886. Bài thơ gồm chín phiên khúc. Nguyên văn như sau:

1. O store Gud, när jag den verld beskådar
Som du har skapat med ditt allmaktsord,
Hur der din visdom leder lifvets trådar,
Och alla väsen mättas vid ditt bord;

Refrain:

Då brister själen, ut i lofsångsljud:
O store Gud! O store Gud!
Då brister själen, ut i lofsångsljud:
O store Gud! O store Gud!
2. När jag betraktar himlens höga under,
Der gyllne verldsskepp plöja etern blå,
Och sol och mane mäta tidens stunder
Och vexla om, som tvänne klockor gå;
3. När jag hör åskans röst i stormen brusa
Och blixtens klingor springa fram ur skyn,
När regnets kalla, friska vindar susa
Och löftets båge glänser för min syn;
4. När vestanvindar susa öfver fälten,
När blommor dofta omkring källans strand,
När trastar drilla i de gröna tälten
Ur furuskogens tysta, dunkla rand;
5. När jag i bibeln skådar alla under,
Som Herren gjort sen förste Adams tid,
Hur nådefull han varit alla stunder
Och hjälpt sitt folk ur lifvets synd och strid;
6. När jag hör dårar i sin dårskaps dimma
Förneka Gud och håna hvad han sagt,
Men ser likväl, att de hans hjälp förnimma
Och uppehållas af hans nåd och makt;
7. Och när jag ser hans bild till jorden sväfva
Och göra väl och hjälpa öfverallt,
När jag ser satan fly och döden bäfva
För Herren i förklarad korsgestalt:
8. När tryckt af syndens skuld jag faller neder
Vid nådens tron och ber om nåd och frid
Och han min själ på rätta vägen leder
Och frälsar mig från all min synd och strid;
9. När slutligt alla tidens höljen falla,
Och i åskådning byter sig min tro,
Och evighetens klara klockor kalla
Min frälsta ande till dess sabbatsro;

Sau khi O Store Gud được phổ biến, bài thơ nhanh chóng được nhiều người yêu thích. Vì được yêu chuộng, bài thơ được nhiều người hát. Năm 1888, trong một lần dự hội đồng tại Värmland, Mục sư Carl Boberg nghe một nhóm tín hữu hát một bài dân ca Thụy Điển. Điều làm ông bất ngờ là lời ca chính là bài thơ mà ông đã viết; với vài thay đổi nhỏ.

Năm 1890, tám câu thơ của bài O Store Gud cùng với nốt nhạc được in trong tập Sions Harpan. Năm 1890, Mục sư Carl Boberg bắt đầu làm chủ bút cho tờ Sanningsvittnet. Nhạc và lời của bài thánh ca O Store Gud sau đó được xuất bản trên tờ báo Sanningsvittnet vào ngày 16/4/1891.

Một thời gian sau, Mục sư Carl Boberg trao quyền xuất bản bài thánh ca cho Hội Thánh Mission Covenant Thụy Điển. Toàn bộ chín phiên khúc và nhạc được xuất bản trong tập nhạc của Hội Thánh Covenant vào năm 1891. Ban đầu bài thánh ca được hát theo nhịp ¾. Đến năm 1894, Hội Thánh Mission Covenant Thụy Điển cho in bài thánh ca với nhịp 4/4. Vì thế, bài thánh ca được hát theo nhịp 4/4 kể từ đó cho tới nay.

Tài Liệu