Ê-xơ-tê: Chương 8
Bản Dịch 1926
1. Ngày đó, vua A-suê-ru ban cho hoàng hậu Ê-xơ-tê cái nhà của Ha-man, kẻ ức hiếp dân Giu-đa. Còn Mạc-đô-chê đi vào trước mặt vua; vì bà Ê-xơ-tê đã bày tỏ người là thân thuộc mình. 2. Vua cổi chiếc nhẫn mà người đã lấy nơi Ha-man và ban cho Mạc-đô-chê. Bà Ê-xơ-tê đặt Mạc-đô-chê trên nhà Ha-man. 3. Bà Ê-xơ-tê lại còn nói trước mặt vua, và phục xuống dưới chân người mà khóc lóc, cầu xin vua diệt mưu ác mà Ha-man, người A-gát, đã toan ý hại dân Giu-đa. 4. Vua đưa cây phủ việt vàng ra cho bà Ê-xơ-tê. Đoạn, bà chổi dậy và đứng trước mặt vua, 5. mà rằng: Nếu vừa ý vua, nếu tôi được ơn trước mặt vua, nếu vua lấy việc làm tiện ích, và tôi được đẹp mắt vua, thì xin vua hãy hạ chiếu đặng bãi các thơ mưu mẹo của Ha-man, con trai Ham-mê-đa-tha, người A-gát, viết đặng truyền giết những dân Giu-đa ở trong các tỉnh của vua. 6. Vì nỡ nào tôi thấy được tai nạn xảy đến cho dân tộc tôi, và lòng nào nỡ xem được sự hủy diệt dòng dõi tôi? 7. Vua A-suê-ru nói với hoàng hậu Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê, người Giu-đa, rằng: Nầy ta đã ban cho bà Ê-xơ-tê nhà của Ha-man, còn hắn, người ta đã xử treo mộc hình, bởi vì hắn đã tra tay ra làm hại người Giu-đa. 8. Vậy, hai ngươi cũng hãy nhân danh vua mà viết về dân Giu-đa điều gì vừa ý hai ngươi, rồi lấy chiếc nhẫn của vua mà ấn dấu. Vì một tờ chiếu chỉ nào viết nhân danh vua và ấn dấu với chiếc nhẫn của vua không thể bãi được. 9. Bấy giờ, nhằm tháng ba, là tháng Si-van, ngày hai mươi ba; những thầy thơ ký được gọi vào, họ y theo mọi điều Mạc-đô-chê dạy biểu mà viết cho dân Giu-đa, các quan trấn thủ, các quan cai quản và những đầu trưởng của các tỉnh, từ Ấn-độ cho đến Ê-thi-ô-bi, tức một trăm hai mươi bảy tỉnh, viết cho tỉnh nào dùng chữ nấy, cho dân tộc nào theo thổ âm nấy, và cho dân Giu-đa, thì theo chữ và tiếng của họ. 10. Mạc-đô-chê viết nhân danh vua A-suê-ru và ấn dấu bằng chiếc nhẫn vua; rồi sai lính trạm đem thơ đi cỡi ngựa hăng và ngựa nòi, bởi ngựa để giống sanh ra. 11. Chiếu chỉ ấy tỏ rằng vua ban phép cho dân Giu-đa ở trong các tỉnh các thành của nước A-suê-ru hiệp lại 12. nội trong một ngày, là ngày mười ba tháng mười hai, tức là tháng A-đa, đặng binh vực sanh mạng mình, tuyệt diệt, đánh giết, và làm cho hư mất quyền năng của dân cừu địch toan hãm hiếp mình, vợ và con cái mình, cùng cho phép đoạt lấy tài sản của chúng nó. 13. Để cho chiếu chỉ được công bố trong mỗi tỉnh, một tờ sao lục chiếu đem rao cho các dân tộc biết, hầu cho người Giu-đa sẵn sàng về ngày đó, mà trả thù các cừu địch mình. 14. Vậy những lính trạm cỡi ngựa hăng và ngựa nòi, vâng mạng vua thúc giục lật đật đi. Đoạn chiếu chỉ ấy được truyền ra trong kinh đô Su-sơ. 15. Mạc-đô-chê từ trước mặt vua trở ra, mặc đồ triều phục xanh và trắng, đội một cái mão triều thiên lớn bằng vàng, và mặc một cái áo dài bằng bố gai mịn màu tím; thành Su-sơ cất tiếng reo mừng và hớn hở. 16. Về phần dân Giu-đa, thì có sự sáng sủa, vui vẻ, khoái lạc và vinh hiển. 17. Trong mỗi tỉnh mỗi thành, phàm nơi nào có mạng lịnh và chiếu chỉ của vua thấu đến, thì có sự vui mừng và sự khoái lạc cho dân Giu-đa, bữa yến tiệc và một ngày ăn lễ. Có nhiều kẻ trong các dân tộc của xứ lại nhập bọn với dân Giu-đa; bởi vì chúng nó bắt sợ hãi dân Giu-đa lắm.
Bản Dịch 2011
Ê-xơ-tê Cứu Người Do-thái
1. Trong chính ngày đó, Vua A-ha-suê-ru ban cho Hoàng Hậu Ê-xơ-tê ngôi nhà của Ha-man, kẻ thù của người Do-thái; đồng thời Mộc-đê-cai cũng được triệu vào để ra mắt vua, vì Ê-xơ-tê đã tâu với vua về liên hệ giữa bà và ông ấy. 2. Bấy giờ vua cởi chiếc nhẫn có con dấu vua đã lấy lại nơi tay Ha-man và trao cho Mộc-đê-cai. Thế là Ê-xơ-tê lập Mộc-đê-cai làm người quản cai mọi sự trong nhà của Ha-man.
3. Kế đó Ê-xơ-tê tâu với vua. Bà sấp mình nơi chân vua mà khóc và van nài, xin vua đẩy lui âm mưu thâm độc của Ha-man người A-ga-ghi, và kế hoạch ông ấy đã lập để hại người Do-thái. 4. Vua đưa cây phủ việt bằng vàng ra cho Ê-xơ-tê, 5. Ê-xơ-tê trỗi dậy và đứng trước mặt vua. Bà nói, “Nếu đẹp lòng hoàng thượng, nếu thần thiếp được ơn của hoàng thượng, và nếu việc nầy được thấy là phải lẽ trước mặt hoàng thượng, kính xin hoàng thượng ban lệnh thu hồi những sắc chỉ mà Ha-man con của Ham-mê-đa-tha, người A-ga-ghi, đã viết ra để truyền lệnh tiêu diệt người Do-thái sống trong các tỉnh của hoàng thượng, 6. vì làm thể nào thần thiếp có thể chịu nổi khi nhìn thấy tai họa xảy đến cho dân tộc mình? Hay làm thể nào thần thiếp có thể chịu nổi khi trông thấy cảnh đồng bào của mình bị tiêu diệt?”
7. Bấy giờ Vua A-ha-suê-ru nói với Hoàng Hậu Ê-xơ-tê và với Mộc-đê-cai người Do-thái, “Nầy, trẫm đã ban cho Ê-xơ-tê ngôi nhà của Ha-man, và người ta đã treo hắn trên mộc hình rồi, vì hắn đã lập mưu để tiêu diệt dân Do-thái. 8. Bây giờ các khanh có thể nhân danh trẫm viết về việc dân Do-thái như thế nào tùy ý các khanh, sau đó niêm phong nó lại, rồi dùng chiếc nhẫn có ấn dấu của trẫm đóng vào, vì một khi sắc chỉ được nhân danh trẫm viết ra và dùng chiếc nhẫn có ấn dấu của trẫm đóng vào, thì không thể thu hồi được.”
9. Bấy giờ các ký lục của vua được triệu đến, vào ngày hai mươi ba tháng Ba, tức tháng Si-van. Một sắc chỉ theo lệnh của Mộc-đê-cai đã được viết ra, gởi cho người Do-thái và gởi cho các thống đốc, các tổng trấn, và các tỉnh trưởng ở các tỉnh, từ Ấn-độ cho đến Ê-thi-ô-pi, một trăm hai mươi bảy tỉnh, tỉnh nào theo chữ viết của tỉnh ấy, dân nào theo ngôn ngữ của dân ấy, và cũng gởi cho dân Do-thái theo chữ viết và ngôn ngữ của họ. 10. Ông nhân danh Vua A-ha-suê-ru viết các sắc chỉ ấy, rồi dùng ấn dấu của vua đóng vào. Ðoạn những người đưa thư cỡi những ngựa nòi nhanh nhất của vua mang các sắc chỉ ấy cấp tốc ra đi.
11. Nội dung các sắc chỉ ấy truyền rằng vua cho phép người Do-thái trong mỗi thành được quyền tụ họp lại để bảo vệ mạng sống mình; họ được quyền tiêu diệt, giết chết, và tận diệt bất cứ quân đội của dân nào hoặc tỉnh nào đến tấn công họ; họ được quyền đánh giết luôn vợ con và cướp lấy tài sản của những kẻ đó. 12. Lệnh ấy có hiệu lực trong một ngày, đó là ngày mười ba tháng Mười Hai, tức tháng A-đa, trong khắp các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru.
13. Bản sao của sắc chỉ ấy cũng được ban hành ở mỗi tỉnh dưới hình thức sắc lệnh, để công bố cho mọi dân tộc biết và đặc biệt là cho người Do-thái biết, hầu họ chuẩn bị sẵn sàng để báo trả những kẻ thù của họ. 14. Vậy những người đưa thư nhận lệnh vua, cỡi những ngựa nòi nhanh nhất của vua, cấp tốc mang các sắc chỉ ra đi. Ngay tại Kinh Ðô Su-sa một chiếu chỉ về việc ấy cũng được ban hành.
15. Khi Mộc-đê-cai từ trong hoàng cung đi ra, mình mặc triều phục màu tím và trắng, đầu đội mão triều lớn bằng vàng, bên ngoài khoác chiếc áo choàng màu tía làm bằng vải gai mịn, dân Kinh Đô Su-sa trông thấy ông, họ cất tiếng reo hò và mừng rỡ. 16. Bấy giờ, đối với người Do-thái, đó là dấu hiệu của sự sáng sủa và vui mừng, hân hoan và hãnh diện. 17. Trong mỗi tỉnh và mỗi thành, nơi nào lệnh của vua và sắc chỉ của vua đến, nơi đó người Do-thái hân hoan và mừng rỡ. Họ mở tiệc ăn mừng và xem đó là một ngày phước hạnh. Bấy giờ, nhiều người trong các xứ tự nhận mình là người Do-thái, bởi vì nỗi sợ hãi người Do-thái đã giáng xuống trên họ.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1926 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Ê-xơ-tê
- Bách Khoa Từ Điển Tin Lành