Khác biệt giữa các bản “II Sa-mu-ên: Chương 22”
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
==Bản Dịch Việt Ngữ== | ==Bản Dịch Việt Ngữ== | ||
− | 1. Đa-vít đã hát những lời trong bài ca nầy cho Đức Giê-hô-va trong ngày Đức Giê-hô-va đã giải cứu ông khỏi tay | + | 1. Đa-vít đã hát những lời trong bài ca nầy cho Đức Giê-hô-va trong ngày Đức Giê-hô-va đã giải cứu ông khỏi tay tất cả những kẻ thù và khỏi tay của Sau-lơ: 2. Ông nói: |
“Đức Giê-hô-va là vầng đá, là đồn lũy của tôi, và là Đấng giải cứu tôi. 3. Đức Chúa Trời là vầng đá của tôi. Tôi nương náu nơi Ngài. Ngài là thuẫn khiên, là cái sừng cứu rỗi của tôi, là ngọn tháp cao, là nơi tôi nương dựa, và là Đấng cứu chuộc của tôi. Ngài đã giải cứu tôi khỏi những kẻ hung bạo. 4. Tôi sẽ kêu cầu Đức Giê-hô-va - là Đấng đáng được tôn ngợi - và tôi sẽ được giải cứu khỏi những kẻ thù của tôi. | “Đức Giê-hô-va là vầng đá, là đồn lũy của tôi, và là Đấng giải cứu tôi. 3. Đức Chúa Trời là vầng đá của tôi. Tôi nương náu nơi Ngài. Ngài là thuẫn khiên, là cái sừng cứu rỗi của tôi, là ngọn tháp cao, là nơi tôi nương dựa, và là Đấng cứu chuộc của tôi. Ngài đã giải cứu tôi khỏi những kẻ hung bạo. 4. Tôi sẽ kêu cầu Đức Giê-hô-va - là Đấng đáng được tôn ngợi - và tôi sẽ được giải cứu khỏi những kẻ thù của tôi. | ||
− | 5. Các lượn sóng của tử thần đã vây phủ tôi, những dòng nước hủy diệt đã làm cho tôi kinh hãi. 6. | + | 5. Các lượn sóng của tử thần đã vây phủ tôi, những dòng nước hủy diệt đã làm cho tôi kinh hãi. 6. Các dây của âm phủ bao quanh tôi, bẫy của tử thần chờ đón tôi. 7. Trong cảnh khốn cùng, tôi cầu khẩn Đức Giê-hô-va. Tôi kêu cầu cùng Đức Chúa Trời của tôi. Từ Đền Thánh, Ngài nghe tiếng của tôi, và tiếng kêu cầu của tôi đã thấu đến tai của Ngài. |
− | 8. Đất rúng động và rung chuyển, các nền trời chấn động và | + | 8. Đất bị rúng động và rung chuyển, các nền trời chấn động và dịch chuyển, bởi vì Ngài đã nổi giận. 9. Khói bốc ra từ mũi của Ngài, lửa thiêu đốt phát ra từ miệng của Ngài, làm cho than hồng cháy rực. 10. Ngài trải các tầng trời ra rồi ngự xuống, mây đen phủ dưới chân của Ngài. 11. Ngài cưỡi trên một chê-rúp rồi bay đi. Ngài được nhìn thấy trên những cánh của gió. 12. Ngài đã dùng bóng tối như những tấm màn che quanh Ngài, những dòng nước đen thẩm trong những đám mây dày đặc trên bầu trời. 13. Ánh sáng rực rỡ trước mặt Ngài như những than cháy rực. |
− | 14. Đức Giê-hô-va đã nổi sấm trên các tầng trời. Đấng Chí Cao phát ra tiếng của Ngài. 15. Ngài bắn tên ra, chúng bay khắp hướng, phát ra chớp nhoáng, làm nhiều người bị tiêu diệt. 16. Bởi lời quở trách của Đức Giê-hô-va, và bởi hơi thở ra từ mũi của Ngài, | + | 14. Đức Giê-hô-va đã nổi sấm trên các tầng trời. Đấng Chí Cao phát ra tiếng của Ngài. 15. Ngài bắn tên ra, chúng bay khắp hướng, phát ra chớp nhoáng, làm cho nhiều người bị tiêu diệt. 16. Bởi lời quở trách của Đức Giê-hô-va, và bởi hơi thở phát ra từ mũi của Ngài, lòng của những đại dương xuất hiện và thềm của các lục địa đã lộ ra. |
− | 17. Từ trên cao, Ngài vươn | + | 17. Từ trên cao, Ngài vươn xuống, nắm lấy tôi, kéo tôi lên khỏi những dòng nước. 18. Ngài đã giải cứu tôi khỏi kẻ thù cường bạo, khỏi những kẻ ghét tôi, bởi vì chúng quá mạnh cho tôi. 19. Chúng tấn công tôi trong lúc tôi lâm nạn, nhưng Đức Giê-hô-va đã nâng đỡ tôi. 20. Ngài đã giải cứu tôi, đem tôi vào một nơi rộng rãi, bởi vì Ngài vui thích về tôi. |
− | 22. | + | 21. Đức Giê-hô-va ban thưởng cho tôi theo sự công chính của tôi, Ngài đền bù cho tôi theo sự thanh sạch của tay tôi, 22. bởi vì tôi đã gìn giữ những đường lối của Đức Giê-hô-va, và không xây khỏi Đức Chúa Trời để làm điều ác; 23. và bởi vì tất cả những mạng lệnh của Ngài đều ở trước mặt tôi, và tôi đã không lìa khỏi những luật lệ của Ngài. 24. Tôi đã sống cách chính trực trước mặt Ngài, và giữ mình cho khỏi phạm tội. 25. Vì vậy, Đức Giê-hô-va đã đền bù cho tôi theo sự công chính của tôi, và theo sự trong sạch của tôi ở trước mặt Ngài. |
26. Ðối với người trung tín, Ngài bày tỏ sự nhân từ với họ. Ðối với người chính trực, Ngài bày tỏ sự toàn vẹn cho họ. 27. Ðối với người trong sạch, Ngài bày tỏ sự trong sạch cho họ. Ðối với kẻ xảo quyệt, Ngài cho họ nếm sự xảo quyệt. 28. Ngài giải cứu người khiêm tốn, nhưng Ngài để mắt trên những kẻ kiêu ngạo để hạ chúng xuống. | 26. Ðối với người trung tín, Ngài bày tỏ sự nhân từ với họ. Ðối với người chính trực, Ngài bày tỏ sự toàn vẹn cho họ. 27. Ðối với người trong sạch, Ngài bày tỏ sự trong sạch cho họ. Ðối với kẻ xảo quyệt, Ngài cho họ nếm sự xảo quyệt. 28. Ngài giải cứu người khiêm tốn, nhưng Ngài để mắt trên những kẻ kiêu ngạo để hạ chúng xuống. | ||
Dòng 21: | Dòng 21: | ||
32. Bởi vì ngoài Đức Giê-hô-va ra, ai là Đức Chúa Trời? Ai là vầng đá, nếu không phải là Đức Chúa Trời của chúng ta? 33. Ðức Chúa Trời là sức mạnh và là năng quyền của tôi. Ngài làm cho đường lối của tôi được trọn vẹn. 34. Ngài làm cho chân tôi lanh lẹ như chân nai. Ngài đặt để tôi trên những nơi cao. 35. Ngài luyện tập tay của tôi cho chiến trận, để cánh tay của tôi giương nổi cây cung bằng đồng. 36. Chúa đã ban cho tôi tấm khiên cứu rỗi của Ngài, và sự hạ mình của Ngài làm cho con được tôn trọng. | 32. Bởi vì ngoài Đức Giê-hô-va ra, ai là Đức Chúa Trời? Ai là vầng đá, nếu không phải là Đức Chúa Trời của chúng ta? 33. Ðức Chúa Trời là sức mạnh và là năng quyền của tôi. Ngài làm cho đường lối của tôi được trọn vẹn. 34. Ngài làm cho chân tôi lanh lẹ như chân nai. Ngài đặt để tôi trên những nơi cao. 35. Ngài luyện tập tay của tôi cho chiến trận, để cánh tay của tôi giương nổi cây cung bằng đồng. 36. Chúa đã ban cho tôi tấm khiên cứu rỗi của Ngài, và sự hạ mình của Ngài làm cho con được tôn trọng. | ||
− | + | 37. Ngài đã mở rộng bước đường dưới chân của con, để chân con không vấp ngã. 38. Con đã đuổi theo những kẻ thù, rồi tiêu diệt chúng. Con sẽ không trở về cho đến khi tận diệt chúng. 39. Con đã hủy hoại chúng, đả thương chúng, khiến cho chúng không ngóc dậy được nữa, và chúng đã ngã gục dưới chân của con. 40. Bởi vì Ngài đã nai nịt cho con bằng sức mạnh để tranh chiến, Ngài đã làm cho những kẻ nổi dậy chống lại con phải suy phục bên dưới con. 41. Ngài đưa ngực của những kẻ thù của con cho con, để con có thể giết những kẻ ghét con. | |
Phiên bản lúc 02:10, ngày 15 tháng 3 năm 2025
Bản Dịch Việt Ngữ
1. Đa-vít đã hát những lời trong bài ca nầy cho Đức Giê-hô-va trong ngày Đức Giê-hô-va đã giải cứu ông khỏi tay tất cả những kẻ thù và khỏi tay của Sau-lơ: 2. Ông nói:
“Đức Giê-hô-va là vầng đá, là đồn lũy của tôi, và là Đấng giải cứu tôi. 3. Đức Chúa Trời là vầng đá của tôi. Tôi nương náu nơi Ngài. Ngài là thuẫn khiên, là cái sừng cứu rỗi của tôi, là ngọn tháp cao, là nơi tôi nương dựa, và là Đấng cứu chuộc của tôi. Ngài đã giải cứu tôi khỏi những kẻ hung bạo. 4. Tôi sẽ kêu cầu Đức Giê-hô-va - là Đấng đáng được tôn ngợi - và tôi sẽ được giải cứu khỏi những kẻ thù của tôi.
5. Các lượn sóng của tử thần đã vây phủ tôi, những dòng nước hủy diệt đã làm cho tôi kinh hãi. 6. Các dây của âm phủ bao quanh tôi, bẫy của tử thần chờ đón tôi. 7. Trong cảnh khốn cùng, tôi cầu khẩn Đức Giê-hô-va. Tôi kêu cầu cùng Đức Chúa Trời của tôi. Từ Đền Thánh, Ngài nghe tiếng của tôi, và tiếng kêu cầu của tôi đã thấu đến tai của Ngài.
8. Đất bị rúng động và rung chuyển, các nền trời chấn động và dịch chuyển, bởi vì Ngài đã nổi giận. 9. Khói bốc ra từ mũi của Ngài, lửa thiêu đốt phát ra từ miệng của Ngài, làm cho than hồng cháy rực. 10. Ngài trải các tầng trời ra rồi ngự xuống, mây đen phủ dưới chân của Ngài. 11. Ngài cưỡi trên một chê-rúp rồi bay đi. Ngài được nhìn thấy trên những cánh của gió. 12. Ngài đã dùng bóng tối như những tấm màn che quanh Ngài, những dòng nước đen thẩm trong những đám mây dày đặc trên bầu trời. 13. Ánh sáng rực rỡ trước mặt Ngài như những than cháy rực.
14. Đức Giê-hô-va đã nổi sấm trên các tầng trời. Đấng Chí Cao phát ra tiếng của Ngài. 15. Ngài bắn tên ra, chúng bay khắp hướng, phát ra chớp nhoáng, làm cho nhiều người bị tiêu diệt. 16. Bởi lời quở trách của Đức Giê-hô-va, và bởi hơi thở phát ra từ mũi của Ngài, lòng của những đại dương xuất hiện và thềm của các lục địa đã lộ ra.
17. Từ trên cao, Ngài vươn xuống, nắm lấy tôi, kéo tôi lên khỏi những dòng nước. 18. Ngài đã giải cứu tôi khỏi kẻ thù cường bạo, khỏi những kẻ ghét tôi, bởi vì chúng quá mạnh cho tôi. 19. Chúng tấn công tôi trong lúc tôi lâm nạn, nhưng Đức Giê-hô-va đã nâng đỡ tôi. 20. Ngài đã giải cứu tôi, đem tôi vào một nơi rộng rãi, bởi vì Ngài vui thích về tôi.
21. Đức Giê-hô-va ban thưởng cho tôi theo sự công chính của tôi, Ngài đền bù cho tôi theo sự thanh sạch của tay tôi, 22. bởi vì tôi đã gìn giữ những đường lối của Đức Giê-hô-va, và không xây khỏi Đức Chúa Trời để làm điều ác; 23. và bởi vì tất cả những mạng lệnh của Ngài đều ở trước mặt tôi, và tôi đã không lìa khỏi những luật lệ của Ngài. 24. Tôi đã sống cách chính trực trước mặt Ngài, và giữ mình cho khỏi phạm tội. 25. Vì vậy, Đức Giê-hô-va đã đền bù cho tôi theo sự công chính của tôi, và theo sự trong sạch của tôi ở trước mặt Ngài.
26. Ðối với người trung tín, Ngài bày tỏ sự nhân từ với họ. Ðối với người chính trực, Ngài bày tỏ sự toàn vẹn cho họ. 27. Ðối với người trong sạch, Ngài bày tỏ sự trong sạch cho họ. Ðối với kẻ xảo quyệt, Ngài cho họ nếm sự xảo quyệt. 28. Ngài giải cứu người khiêm tốn, nhưng Ngài để mắt trên những kẻ kiêu ngạo để hạ chúng xuống.
29. Bởi vì Đức Giê-hô-va ôi! Ngài là ngọn đèn của con. Đức Giê-hô-va sẽ chiếu sáng trong sự tăm tối của con. 30. Vì nhờ Ngài, con có thể xuyên qua một đạo quân. Nhờ Ðức Chúa Trời của con, con có thể vượt qua được tường thành. 31. Đức Chúa Trời ôi! Đường lối của Ngài là trọn vẹn. Lời của Đức Giê-hô-va là tinh luyện. Ngài là thuẩn khiên cho tất cả những người nương náu nơi Ngài.
32. Bởi vì ngoài Đức Giê-hô-va ra, ai là Đức Chúa Trời? Ai là vầng đá, nếu không phải là Đức Chúa Trời của chúng ta? 33. Ðức Chúa Trời là sức mạnh và là năng quyền của tôi. Ngài làm cho đường lối của tôi được trọn vẹn. 34. Ngài làm cho chân tôi lanh lẹ như chân nai. Ngài đặt để tôi trên những nơi cao. 35. Ngài luyện tập tay của tôi cho chiến trận, để cánh tay của tôi giương nổi cây cung bằng đồng. 36. Chúa đã ban cho tôi tấm khiên cứu rỗi của Ngài, và sự hạ mình của Ngài làm cho con được tôn trọng.
37. Ngài đã mở rộng bước đường dưới chân của con, để chân con không vấp ngã. 38. Con đã đuổi theo những kẻ thù, rồi tiêu diệt chúng. Con sẽ không trở về cho đến khi tận diệt chúng. 39. Con đã hủy hoại chúng, đả thương chúng, khiến cho chúng không ngóc dậy được nữa, và chúng đã ngã gục dưới chân của con. 40. Bởi vì Ngài đã nai nịt cho con bằng sức mạnh để tranh chiến, Ngài đã làm cho những kẻ nổi dậy chống lại con phải suy phục bên dưới con. 41. Ngài đưa ngực của những kẻ thù của con cho con, để con có thể giết những kẻ ghét con.
Bản Dịch 1925
1. Khi Đức Giê-hô-va đã giải cứu Đa-vít khỏi tay các thù nghịch và khỏi tay Sau-lơ, thì người hát các lời nầy mà ngợi khen Đức Giê-hô-va,
2. rằng: Đức Giê-hô-va là hòn đá và đồn lũy tôi, Đấng giải cứu tôi.
3. Đức Chúa Trời tôi là hòn đá tôi, nơi tôi sẽ nương náu mình, Là thuẫn đỡ tôi, sừng chửng cứu tôi, Ngọn tháp cao và nơi nương dựa của tôi; Hỡi Đấng che chở tôi! ấy Ngài giải cứu tôi khỏi sự hung bạo.
4. Tôi sẽ kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va, là Đấng đáng khen ngợi; Thì tôi sẽ được giải cứu khỏi các thù nghịch tôi.
5. Các lượng sóng của tử vong đã phủ bao tôi, Lụt gian ác chảy cuộn làm cho tôi sợ hãi;
6. Những dây của địa ngục đã vấn tôi, Lưới sự chết có hãm bắt tôi.
7. Trong cơn hoạn nạn tôi cầu khẩn Đức Giê-hô-va, Tôi kêu la cùng Đức Chúa Trời tôi. Ở nơi đền Ngài nghe tiếng tôi, Tiếng kêu cầu của tôi thấu đến tai Ngài.
8. Bấy giờ, đất động và rung, Nền các từng trời cũng lay chuyển, Nó rúng động, vì Ngài nổi giận.
9. Khói bay ra từ lỗ mũi Ngài, Và từ miệng Ngài phát ra ngọn lửa hực. Ngài khiến than hừng đỏ phun ra,
10. Làm nghiêng lệch các từng trời, và ngự xuống, Dưới chân Ngài có vùng đen kịt.
11. Ngài cỡi một chê-ru-bin và bay; Ngài hiện ra trên cánh của gió.
12. Ngài bủa sự tối tăm, những vùng nước, những mây đen mịt, Chung quanh mình như một cái trại.
13. Từ sự rực rỡ ở trước mặt Ngài, Những than hực chiếu sáng ra.
14. Đức Giê-hô-va sấm sét trên các từng trời, Đấng Chí cao làm cho tiếng Ngài vang rân.
15. Ngài bắn tên, làm cho quân thù tôi tản lạc, Phát chớp nhoáng, khiến chúng nó lạc đường.
16. Bởi lời hăm he của Đức Giê-hô-va, Bởi gió xịt ra khỏi lỗ mũi Ngài, Đáy biển bèn lộ ra, Nền thế gian bị bày tỏ.
17. Từ trên cao, Ngài giơ tay nắm tôi, Rút tôi ra khỏi nước sâu.
18. Ngài giải cứu tôi khỏi kẻ thù nghịch cường bạo, Khỏi kẻ ghét tôi, vì chúng nó mạnh hơn tôi.
19. Trong ngày hoạn nạn chúng nó đến xông vào tôi; Nhưng Đức Giê-hô-va nâng đỡ tôi.
20. Ngài đem tôi ra nơi rộng rãi, Giải cứu tôi, vì Ngài ưa thích tôi.
21. Đức Giê-hô-va đã thưởng tôi tùy sự công bình tôi, Báo tôi theo sự thanh sạch của tay tôi.
22. Vì tôi có giữ theo các đường lối của Đức Giê-hô-va, Không làm ác xây bỏ Đức Chúa Trời tôi.
23. Vì các mạng lịnh của Ngài đều ở trước mặt tôi, Tôi chẳng lìa xa các luật lệ Ngài.
24. Tôi cũng ở trọn vẹn với Ngài, Và giữ lấy mình khỏi gian ác.
25. Vì vậy, Đức Giê-hô-va đã báo tôi tùy sự công bình tôi, Thưởng tôi theo sự tinh sạch tôi trước mặt Ngài.
26. Kẻ hay thương xót, Chúa sẽ thương xót lại; Đối cùng kẻ trọn vẹn, Chúa sẽ tỏ mình trọn vẹn lại.
27. Đối cùng kẻ tinh sạch, Chúa sẽ tỏ mình tinh sạch lại; Còn đối cùng kẻ trái nghịch, Chúa sẽ tỏ mình nhặt nhiệm lại.
28. Vì Chúa cứu dân bị khốn khổ; Nhưng mắt Chúa coi chừng kẻ kiêu căng đặng làm chúng nó bị hạ xuống.
29. Đức Giê-hô-va ôi! thật Ngài là ngọn đèn tôi, Và Đức Giê-hô-va sẽ chiếu sáng sự tối tăm tôi.
30. Nhờ Ngài tôi sẽ xông ngang qua đạo binh, Cậy Đức Chúa Trời tôi, tôi vượt khỏi tường thành.
31. Còn Đức Chúa Trời, các đường của Ngài vốn là trọn vẹn, Lời của Đức Giê-hô-va là tinh tường. Ngài là cái thuẫn cho mọi người nương náu mình nơi Ngài.
32. Vậy, trừ ra Đức Giê-hô-va ai là Đức Chúa Trời? Ai là hòn đá lớn, nếu không phải là Đức Chúa Trời chúng ta?
33. Đức Chúa Trời là đồn lũy vững chắc của tôi, Ngài dắt người trọn vẹn vào đường chánh đáng.
34. Ngài làm cho chân tôi lẹ như chân nai cái, Và để tôi đứng trên các nơi cao của tôi.
35. Ngài tập tay tôi chiến trận, Đến đỗi cánh tay tôi giương nổi cung đồng.
36. Chúa đã ban sự chửng cứu cho tôi làm cái khiên, Và sự hiền từ Chúa đã làm cho tôi nên sang trọng.
37. Chúa mở rộng đường dưới bước tôi, Và chân tôi không xiêu tó.
38. Tôi đuổi theo kẻ thù nghịch tôi, và hủy diệt nó, Chỉ trở về sau khi đã tận diệt chúng nó.
39. Tôi trừ tiệt, đâm lủng chúng nó, không thể dậy lại được; Chúng nó sa ngã dưới chân tôi.
40. Vì Chúa đã thắt lưng tôi bằng sức mạnh để chiến trận, Và khiến kẻ dấy nghịch cùng tôi xếp rệp dưới tôi.
41. Chúa cũng khiến kẻ thù nghịch xây lưng cùng tôi, Hầu cho tôi diệt những kẻ ghét tôi.
42. Chúng nó trông ngóng, nhưng chẳng ai cứu cho; Chúng nó kêu cùng Đức Giê-hô-va, song Ngài không đáp lại.
43. Bấy giờ tôi đập giập chúng nó khác nào bụi dưới đất; Chà nát, giày đạp chúng nó giống như bùn ngoài đường.
44. Chúa đã giải cứu tôi khỏi sự tranh giành của dân sự tôi, Gìn giữ tôi để làm đầu các nước; Một dân tộc tôi không quen biết sẽ phục sự tôi.
45. Các người ngoại quốc sẽ phục dưới tôi; Vừa nghe nói về tôi, chúng nó đều vâng theo tôi.
46. Các người ngoại quốc sẽ tàn mọt, Đi ra khỏi chỗ ẩn mình cách run sợ.
47. Đức Giê-hô-va hằng sống; đáng ngợi khen hòn đá lớn tôi! Nguyện Đức Chúa Trời, là hòn đá của sự chửng cứu tôi, được tôn cao!
48. Tức là Đức Chúa Trời báo thù cho tôi, Khiến các dân tộc qui phục tôi.
49. Ngài giải cứu tôi khỏi kẻ thù nghịch; Thật Chúa nâng tôi lên cao hơn kẻ dấy nghịch cùng tôi, Và cứu tôi khỏi người hung bạo.
50. Vì vậy, Đức Giê-hô-va ôi! Tôi sẽ khen ngợi Ngài tại giữa các dân, Và ca tụng danh của Ngài.
51. Đức Giê-hô-va ban cho vua của Ngài sự giải cứu lớn lao, Và làm ơn cho đấng chịu xức dầu của Ngài, Tức là cho Đa-vít và cho dòng dõi người, đến đời đời.
Bản Dịch 2011
Bài Ca Tạ Ơn CHÚA Giải Cứu
1 Bấy giờ Ða-vít dâng lên CHÚA những lời ca ngợi này, sau ngày CHÚA giải cứu ông khỏi tay mọi kẻ thù và khỏi tay của Sau-lơ. 2 Ông nói,
“CHÚA là vầng đá của tôi,
Ðồn lũy của tôi, và Ðấng Giải Cứu của tôi.
3 Ðức Chúa Trời là vầng đá của tôi; tôi nương náu nơi Ngài.
Ngài là thuẫn khiên của tôi và là sừng cứu rỗi của tôi;
Ngài là thành trì của tôi và là nơi tôi ẩn náu.
‘Lạy Ðấng Giải Cứu của con,
Ngài cứu con khỏi quân cường bạo.’
4 Tôi sẽ kêu cầu CHÚA, Ðấng đáng được ca ngợi,
Ðể tôi sẽ được cứu khỏi những kẻ thù ghét mình.
5 Khi những đợt sóng của tử thần bao phủ tôi;
Những dòng nước lũ của phường gian ác làm tôi kinh hãi;
6 Các dây của âm phủ trói cột tôi;
Các bẫy của tử thần sập xuống bắt lấy tôi.
7 Trong cảnh nguy nan tôi kêu cầu CHÚA;
Tôi kêu van với Ðức Chúa Trời của tôi.
Từ đền thánh Ngài, Ngài đã nghe tiếng tôi;
Tiếng cầu xin của tôi đã thấu đến tai Ngài.
8 Bấy giờ đất rúng động và rung chuyển;
Các nền trời chấn động và rung rinh;
Vì Ngài đã nổi giận.
9 Khói bay ra từ lỗ mũi Ngài;
Lửa hừng thiêu đốt thoát ra từ miệng Ngài;
Làm bùng cháy các than.
10 Ngài nghiêng các từng trời và ngự xuống;
Một áng mây đen che dưới chân Ngài;
11 Ngài ngự trên một thiên thần phục vụ và bay đi;
Ngài được trông thấy trên cánh gió.
12 Ngài khiến bóng tối làm màn trướng che quanh Ngài,
Tức bóng tối của nước mưa và mây đen mù mịt.
13 Do ánh hào quang rực rỡ trước mặt Ngài,
Các viên than đã bùng cháy.
14 Từ trời cao CHÚA phát ra sấm sét;
Ðấng Tối Cao cất tiếng, âm thanh vang dội khắp trời.
15 Ngài bắn tên ra, quân thù chạy tán loạn;
Ngài phát chớp nhoáng ra, chúng nó bị tiêu tan.
16 CHÚA quở một tiếng, các đáy biển liền lộ ra;
Ngài hắt hơi, các nền địa cầu liền bày rõ.
17 Từ trời cao Ngài vói tay xuống nắm lấy tôi;
Ngài kéo tôi lên khỏi những dòng nước mạnh.
18 Ngài giải thoát tôi khỏi quân thù hung bạo;
Ngài cứu tôi thoát khỏi những kẻ ghét tôi;
Vì đối với tôi chúng thật là mạnh mẽ.
19 Chúng đối đầu với tôi giữa lúc tôi lâm cảnh nguy nan,
Nhưng CHÚA đã giúp đỡ tôi.
20 Ngài đã đem tôi ra một nơi an toàn thoải mái;
Ngài đã giải cứu tôi, vì Ngài thấy tôi đẹp lòng Ngài.
21 CHÚA đã ban thưởng cho tôi tùy theo lòng ngay lành của tôi;
Ngài đã đền bù cho tôi, tùy theo sự thanh sạch của tay tôi.
22 Vì tôi đã gìn giữ các đường lối CHÚA;
Tôi đã không làm gì xấu xa gian ác nghịch lại Ðức Chúa Trời của mình.
23 Vì các mạng lịnh Ngài hằng ở trước mặt tôi;
Còn các luật lệ Ngài tôi không bao giờ từ bỏ.
24 Tôi luôn giữ mình cho trọn vẹn trước mặt Ngài;
Tôi gìn giữ chính mình khỏi những gì tội lỗi.
25 Vì thế CHÚA đã ban thưởng cho tôi tùy theo lòng ngay lành của tôi,
Tùy theo sự trong sạch của tôi ở trước thánh nhan Ngài.
26 Ðối với người có lòng thương xót, Ngài lấy ơn thương xót mà đối với họ;
Ðối với người trọn vẹn, Ngài bày tỏ cho họ thế nào là trọn vẹn theo tiêu chuẩn của Ngài;
27 Ðối với người trong sạch,
Ngài cho họ biết sự trong sạch theo chuẩn mực của Ngài phải ra sao;
Ðối với những kẻ gian manh,
Ngài cho chúng biết chúng không thể qua mặt được Ngài.
28 Ngài sẽ cứu giúp những người khốn khổ;
Nhưng mắt Ngài sẽ theo dõi những kẻ kiêu ngạo, để hạ chúng xuống.
29 Lạy CHÚA, vì Ngài là ngọn đèn của con;
CHÚA biến hoàn cảnh tối tăm của con trở nên sáng sủa.
30 Vì nhờ CHÚA, con có thể xông qua một đạo quân;
Nhờ Ðức Chúa Trời của con, con có thể vượt qua được tường thành.
31 Lạy Ðức Chúa Trời, đường lối Ngài thật là toàn hảo;
Lời CHÚA thật linh nghiệm vô cùng.
Ngài là thuẫn khiên cho những ai tin cậy Ngài.
32 Vì ngoài CHÚA ra, ai là Ðức Chúa Trời?
Ngoài Ðức Chúa Trời ra, ai là Vầng Ðá của chúng ta?
33 Ðức Chúa Trời là thành trì và sức mạnh của tôi.
Ngài làm cho đường lối tôi trở nên trọn vẹn.
34 Ngài làm cho chân tôi nhanh nhẹn tựa chân nai.
Ngài lập cho tôi được vững vàng trên những nơi cao.
35 Ngài luyện tập tay tôi cho ngày chiến trận,
Ðể đôi tay tôi có thể giương nổi một cây cung đồng.
36 Ngài đã ban cho con ơn cứu rỗi của Ngài, để làm thuẫn khiên che chở;
Cách Ngài đối xử dịu dàng với con đã làm cho con được tôn trọng.
37 Ðường con đi Ngài mở toang rộng rãi;
Nên chân con chẳng trợt ngã bao giờ.
38 Con đuổi theo những kẻ thù của con và tiêu diệt chúng;
Con không quay trở về cho đến khi chúng bị tiêu diệt hoàn toàn.
39 Con đã tiêu diệt chúng và đập tan chúng, khiến chúng không ngóc dậy được nữa;
Chúng đã bị ngã gục dưới chân con.
40 Vì Ngài đã nai nịt cho con bằng sức mạnh để ra trận;
Ngài đã làm cho những kẻ nổi dậy chống con phải quỳ lạy dưới chân con.
41 Ngài khiến quân thù của con phải quay lưng bỏ chạy;
Và cho con tiêu diệt những kẻ ghét con.
42 Chúng trông ngóng, nhưng chẳng ai cứu giúp;
Chúng cũng kêu cầu CHÚA, nhưng Ngài chẳng đáp lời.
43 Bấy giờ con đánh chúng tan tành như bụi đất;
Con giày đạp chúng và rải chúng ra như bùn ở ngoài đường.
44 Ngài đã giải thoát con khỏi các cuộc chống đối của dân con;
Ngài đã giữ con làm thủ lãnh của các quốc gia;
Một dân con chưa biết sẽ phục vụ con.
45 Những người ngoại quốc thuận phục con;
Vừa khi nghe đến con, họ liền vâng phục.
46 Quân ngoại bang đều hồn phi phách tán;
Từ trong các chiến lũy chúng run rẩy kéo ra hàng.
47 CHÚA là Ðấng hằng sống!
Chúc tụng Vầng Ðá của tôi!
Nguyện Ðức Chúa Trời, Vầng Ðá cứu rỗi của tôi, được tôn cao!
48 Chính Ðức Chúa Trời đã báo thù cho tôi;
Ngài đã bắt thiên hạ phục dưới quyền tôi.
49 Lạy Ðấng giải cứu con khỏi những kẻ thù của con,
Thật vậy Ngài đã nâng con lên trên những kẻ nổi lên chống lại con;
Ngài đã giải cứu con khỏi kẻ bạo tàn.
50 Vì thế, lạy CHÚA, con sẽ chúc tạ Ngài ở giữa các dân;
Con sẽ hát ca chúc tụng danh Ngài.
51 Ngài là tháp cứu rỗi cho người Ngài lập làm vua;
Ngài bày tỏ lòng thương xót đối với người được xức dầu của Ngài,
Tức với Ða-vít và dòng dõi của người ấy đến đời đời.”
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
- Các Quan Xét
- I Sa-mu-ên
- II Sa-mu-ên
- II Sa-mu-ên: Chương 21
- II Sa-mu-ên: Chương 23
- Bách Khoa Từ Điển Tin Lành