Khác biệt giữa các bản “Giô-suê: Chương 18”
(Tạo trang mới với nội dung “==Bản Dịch 1926== 1. Cả hội chúng dân Y-sơ-ra-ên nhóm hiệp tại Si-lô, và lập hội mạc tại đó: xứ đều phục trước m…”) |
|||
(Không hiển thị 14 phiên bản của 2 người dùng ở giữa) | |||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
− | ==Bản Dịch | + | ==Bản Dịch Việt Ngữ== |
− | 1. | + | |
+ | 1. Tất cả hội chúng của dân Y-sơ-ra-ên đã nhóm hiệp tại Si-lô và họ đã dựng Lều Hội Kiến tại đó. Toàn xứ đã bị khuất phục trước mặt của họ. | ||
+ | |||
+ | 2. Nhưng trong dân Y-sơ-ra-ên vẫn còn bảy chi tộc chưa được phân chia sản nghiệp. 3. Giô-suê nói với dân Y-sơ-ra-ên: Các ngươi còn chần chờ cho đến khi nào mới đi chiếm xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi đã ban cho các ngươi? 4. Giữa vòng các ngươi, mỗi chi tộc hãy chỉ định ba người, rồi ta sẽ sai họ đi. Họ sẽ đứng dậy đi khắp xứ, khảo cứu địa hình, rồi trở về cùng ta. 5. Họ sẽ chia xứ làm bảy phần. Giu-đa sẽ giữ nguyên địa phận của mình ở miền nam. Nhà Giô-sép sẽ giữ nguyên địa phận của mình ở miền bắc. 6. Vì vậy, các ngươi hãy khảo sát xứ, rồi chia làm bảy phần, và đem đến đây cho ta. Ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại đây trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta. 7. Tuy nhiên, người Lê-vi không được lãnh phần đất nào giữa vòng các ngươi bởi vì chức vụ tế lễ cho Đức Giê-hô-va là cơ nghiệp của họ. Gát, Ru-bên, và phân nửa chi tộc Ma-na-se đã nhận sản nghiệp của họ ở phía đông của sông Giô-đanh mà Môi-se, đầy tớ của Đức Giê-hô-va, đã ban cho họ. | ||
+ | |||
+ | 8. Những người đó đã đứng dậy ra đi. Giô-suê truyền cho họ đi khảo sát địa hình, và nói: Hãy đi xuyên suốt cả xứ, khảo sát nó, rồi trở lại với ta. Ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại đây - tại Si-lô - trước mặt Đức Giê-hô-va. 9. Vì vậy những người đó đã đi xuyên suốt cả xứ, mô tả các thành làm bảy phần trong một cuộn sách, rồi trở về doanh trại với Giô-suê tại Si-lô. 10. Giô-suê đã bắt thăm cho họ tại Si-lô trước mặt Đức Giê-hô-va. Tại đó, Giô-suê đã chia đất cho dân Y-sơ-ra-ên theo phần của họ. | ||
+ | |||
+ | 11. Phần bắt thăm phân chia cho chi tộc của con cháu Bên-gia-min, theo những gia tộc của họ, ra trước. Lãnh thổ bắt thăm của họ nằm giữa lãnh thổ của con cháu Giu-đa và của con cháu Giô-sép. 12. Về phía bắc, ranh giới của họ từ sông Giô-đanh, ranh giới đi dọc theo triền núi phía bắc của Giê-ri-cô, rồi đi lên xuyên qua vùng núi ở hướng tây, và dừng lại tại hoang mạc Bết A-vên. 13. Từ đó ranh giới chạy thẳng về hướng về Lu-xơ đến phía nam của Lu-xơ, tức là Bê-tên, rồi chạy xuống A-ta-rốt A-đa, gần ngọn đồi về phía nam của Bết Hô-rôn Hạ. 14. Ranh giới tiếp tục đi vòng từ phía tây qua phía nam, tức là từ núi đối diện Bết Hô-rôn về phía nam, rồi dừng lại tại Ki-ri-át Ba-anh, tức là Ki-ri-át Giê-a-rim, là thành của con cháu Giu-đa. Đó là ranh giới phía tây. 15. Ranh giới phía nam bắt đầu từ ngoại thành của Ki-ri-át Giê-a-rim, ranh giới chạy về hướng tây, đến dòng suối thuộc lưu vực của Nép-thô-ách. 16. Ranh giới đi xuống đến chân núi đối diện thung lũng Bên Hi-nôm, đến phía bắc của thung lũng Rê-pha-im, chạy xuống thung lũng Hi-nôm, hướng về phía nam của Giê-bu, rồi xuống đến Ên Rô-ghên. 17. Từ đó nó vòng lên hướng bắc, đến Ên-sê-mết, tiếp tục chạy về Ghê-li-lốt, đối ngang đèo A-đu-mim, chạy xuống vầng đá Bô-han thuộc về con cháu của Ru-bên. 18. Ranh giới chạy ngang qua sườn núi phía bắc của Bết A-ra-ba, rồi xuống đến A-ra-ba. 19. Ranh giới quay sang sườn núi phía bắc của Bết Hốt-la, tiếp giáp vịnh phía bắc của Biển Muối tại cửa sông phía nam của Giô-đanh. Đó là ranh giới về phía nam. 20. Sông Giô-đanh là ranh giới phía đông của họ. Ðó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, được phân chia theo những gia tộc của họ, cùng với những ranh giới bao quanh. | ||
+ | |||
+ | 21. Những thành phố của chi tộc thuộc con cháu Bên-gia-min, theo những gia tộc của họ, đó là: | ||
+ | |||
+ | Giê-ri-cô, Bết Hốt-la, Ê-méc-kê-sít, 22. Bết A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, 23. A-vim, Pha-ra, Óp-ra, 24. Kê-pha A-mô-nai, Óp-ni, và Ghê-ba: Tất cả là mười hai thành và những làng mạc của chúng. | ||
+ | |||
+ | 25. Ga-ba-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt, 26. Mích-pê, Kê-phi-ra, Một-sa, 27. Rê-kem, Giệt-bê-ên, Tha-rê-a-la, 28. Xê-la, Ê-lép, Giê-bu, tức là Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-át, Ki-ri-át. Tất cả là mười bốn thành với những làng mạc của chúng. | ||
+ | |||
+ | Đó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min theo từng gia tộc của họ. | ||
+ | |||
+ | ==Bản Dịch 1925== | ||
+ | |||
+ | 1. Cả hội chúng dân Y-sơ-ra-ên nhóm hiệp tại Si-lô, và lập hội mạc tại đó: xứ đều phục trước mặt họ. 2. Nhưng trong dân Y-sơ-ra-ên còn lại bảy chi phái mà người ta chưa phân phát phần sản nghiệp cho. 3. Giô-suê bèn nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Các ngươi lần lữa cho đến chừng nào, không đi chiếm xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi ban cho các ngươi? 4. Hãy chọn từng chi phái ba người, rồi ta sẽ sai đi; các người này sẽ đứng dậy đi khắp xứ, lấy địa đồ để phân chia, rồi sẽ trở về cùng ta. 5. Họ sẽ chia xứ làm bảy phần; Giu-đa sẽ ở trong giới hạn mình nơi miền nam; còn nhà Giô-sép ở trong giới hạn mình nơi miền bắc. 6. Vậy, các ngươi hãy lấy địa đồ của xứ làm bảy phần, đem về đây cho ta; rồi ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại đây trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta. 7. Nhưng không có phần cho người Lê-vi tại giữa các ngươi; bởi vì chức tế lễ của Đức Giê-hô-va là sản nghiệp của các người đó; còn Gát, Ru-bên, và phân nửa chi phái Ma-na-se đã lãnh phần sản nghiệp mà Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã ban cho họ ở bên kia sông Giô-đanh về phía đông. | ||
+ | |||
+ | 8. Vậy, các người ấy đứng dậy đi; Giô-suê truyền lịnh cho các người đi đặng lấy địa đồ của xứ, mà rằng: Hãy đi khắp xứ lấy địa đồ, rồi trở về cùng ta; ta sẽ bắt thăm tại đây cho các ngươi trước mặt Đức Giê-hô-va ở Si-lô. 9. Các người ấy bèn đi khắp xứ, vẽ địa đồ trên một quyển sách chia làm bảy phần, tùy theo các thành; rồi trở về cùng Giô-suê ở trại quân tại Si-lô. 10. Giô-suê bèn bắt thăm cho chúng tại Si-lô, trước mặt Đức Giê-hô-va; tại đó Giô-suê chia xứ ra cho dân Y-sơ-ra-ên, tùy theo các chi phái của họ. | ||
+ | |||
+ | 11. Thăm trúng nhằm chi phái Bên-gia-min, tùy theo những họ hàng của chúng, và địa phận mà thăm chỉ định, ở nhằm giữa chi phái Giu-đa và chi phái Giô-sép. | ||
+ | |||
+ | 12. Giới hạn của Bên-gia-min về phía bắc chạy từ Giô-đanh, đi lên phía sau Giê-ri-cô về hướng bắc; đoạn bò lên núi, rồi giáp đồng vắng Bết-A-ven. 13. Từ đó giới hạn đi ngang sau lưng Lu-xơ, cũng gọi là Bê-tên, tại phía nam, rồi chạy xuống A-ta-rốt-A-đa ở gần núi về phía nam Bết-Hô-rôn dưới. 14. Giới hạn giăng vòng từ phía tây về hướng nam, tức từ núi đối ngang Bết-Hô-rôn về phía nam; rồi giáp Ki-ri-át-Ba-anh, tức là Ki-ri-át-Giê-a-rim, thành của người Giu-đa. Đó là miền tây. | ||
+ | |||
+ | 15. Miền nam khởi từ đầu Ki-ri-át-Giê-a-rim; giới hạn cứ chạy về phía tây, thẳng đến suối nước Nép-thô-ách; 16. rồi nó xuống đến đuôi núi nằm ngang trũng con trai Hi-nôm ở trong trũng Rê-pha-im, tại phía bắc; nó chạy xuống dọc theo trũng Hi-nôm ở sau lưng Giê-bu-sít, về phía nam, đoạn xuống đến Ên-Rô-ghên. 17. Giới hạn chạy về hướng bắc đến Ên-Sê-mết; từ đó thẳng về Ghê-li-lốt ở đối ngang dốc A-đu-mim, rồi chạy xuống đến hòn đá Bô-han, là con trai Ru-bên; 18. đoạn, nó đi ngang A-ra-ba về hướng bắc, và chạy xuống A-ra-ba. 19. Giới hạn liền đi ngang qua phía sau Bết-Hốt-la về hướng bắc, rồi giáp phía Biển mặn về hướng bắc ở đầu phía nam của sông Giô-đanh. Đó là giới hạn về phía nam. 20. Về phía đông nó giáp sông Giô-đanh. Đó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, và giới hạn về bốn phía, tùy theo những họ hàng của chúng. | ||
+ | |||
+ | 21. Các thành của chi phái Bên-gia-min, tùy theo những họ hàng của chúng, là: Giê-ri-cô, Bết-Hôt-la, Ê-méc-kê-sít, 22. Bết-a-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, 23. A-vim, Pha-ra, Óp-ra, 24. Kê-pha-A-mô-nai, Óp-ni, và Ghê-ba: hết thảy mười hai thành và các làng của nó; 25. Ga-ba-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt, 26. Mít-bê, Kê-phi-ra, Một-sa, 27. Rê-kem, Giệt-bê-ên, Tha-rê-a-la, 28. Xê-la, Ê-lép, Giê-bu, tức là Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-át, Ki-ri-át: hết thảy mười bốn thành với các làng của nó. Đó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, tùy theo những họ hàng của chúng. <br/> | ||
+ | |||
+ | :<html5media height="520" width="1280">https://thuvientinlanh.org/audio/Bible/read/V02\B06\V02B06C018.mp3</html5media> | ||
+ | |||
==Bản Dịch 2011== | ==Bản Dịch 2011== | ||
− | '''Lãnh Thổ của Các Chi Tộc Còn Lại''' | + | '''Lãnh Thổ của Các Chi Tộc Còn Lại''' |
+ | |||
+ | 1 Bấy giờ toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên nhóm lại tại Si-lô và dựng Lều Hội Kiến tại đó. Lúc ấy xứ đã bị khuất phục trước mặt họ rồi. 2 Trong I-sơ-ra-ên vẫn còn bảy chi tộc chưa được chia phần sản nghiệp. 3 Vì thế Giô-suê nói với dân I-sơ-ra-ên, “Cho đến bao giờ anh chị em mới chịu đi vào chiếm lấy xứ mà CHÚA, Ðức Chúa Trời của tổ tiên anh chị em, đã ban cho anh chị em làm sản nghiệp? 4 Anh chị em hãy chọn cho tôi ba người trong mỗi chi tộc, để tôi sẽ sai họ đi, hầu họ có thể đứng dậy, đi khắp xứ, ghi rõ địa hình của những phần đất các chi tộc sẽ nhận làm sản nghiệp, rồi sẽ trở về đây báo cáo cho tôi. 5 Họ sẽ chia xứ còn lại ra làm bảy phần. Chi tộc Giu-đa sẽ ở trong lãnh thổ đã chia cho họ ở phía nam, còn nhà Giô-sép sẽ ở trong lãnh thổ đã chia cho họ ở phía bắc. 6 Anh chị em sẽ chia xứ còn lại ra làm bảy phần, rồi mang bản đồ có ghi rõ địa hình về đây cho tôi. Tôi sẽ cho anh chị em bắt thăm chia đất tại đây, trước thánh nhan CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta. 7 Dĩ nhiên người Lê-vi sẽ không được chia phần đất nào ở giữa anh chị em, vì chức vụ tư tế cho CHÚA là phần sản nghiệp của họ rồi. Còn chi tộc Gát, chi tộc Ru-bên, và phân nửa chi tộc Ma-na-se đã nhận phần sản nghiệp của họ ở phía đông Sông Giô-đanh, mà Môi-se tôi tớ của CHÚA đã ban cho họ.” | ||
+ | |||
+ | 8 Vậy những người ấy đứng dậy và lên đường. Giô-suê ra lịnh cho những người đi vẽ bản đồ của xứ rằng, “Hãy đi khắp xứ và ghi rõ địa hình của nó, rồi trở về đây với tôi. Tôi sẽ cho anh em bắt thăm tại đây, trước thánh nhan CHÚA ở Si-lô.” | ||
+ | |||
+ | 9 Vậy những người ấy ra đi, quan sát khắp xứ, vẽ bản đồ, liệt kê các thành, chia xứ làm bảy phần, và ghi chép vào một cuộn sách, rồi trở về doanh trại với Giô-suê tại Si-lô. 10 Kế đó Giô-suê cho họ bắt thăm tại Si-lô, trước thánh nhan CHÚA, và tại đó Giô-suê đã chia xứ cho dân I-sơ-ra-ên, mỗi chi tộc một phần. | ||
+ | |||
+ | '''Lãnh Thổ của Chi Tộc Bên-gia-min''' | ||
+ | |||
+ | 11 Chi tộc của con cháu Bên-gia-min, theo các gia tộc của họ, được trúng thăm trước hết. Lãnh thổ họ bắt thăm được nằm ở giữa lãnh thổ của con cháu Giu-đa và con cháu Giô-sép. 12 Về phía bắc, ranh giới của họ bắt đầu từ Sông Giô-đanh đi dọc theo triền núi phía bắc của Giê-ri-cô, rồi đi lên cao nguyên ở hướng tây, và chấm dứt ở Ðồng Hoang Bết A-vên. 13 Từ đó ranh giới ấy chạy dọc theo sườn núi, trực chỉ Lu-xơ ở hướng nam, rồi chạy dọc theo triền Lu-xơ, tức Bê-tên; ranh giới ấy lại tiếp tục đi xuống A-ta-rốt Át-đa, chạy dọc theo rặng núi nằm về phía nam của miền dưới Bết Hô-rôn. 14 Ranh giới ấy chuyển hướng, chạy theo sườn núi phía tây để đi về hướng nam, rồi từ trên núi ở phía nam đối ngang Bết Hô-rôn tiếp tục chạy về hướng nam, và dừng lại tại Ki-ri-át Ba-anh, tức Ki-ri-át Giê-a-rim, một thành thuộc về con cháu Giu-đa. Ðó là ranh giới phía tây của họ. 15 Ranh giới phía nam bắt đầu từ ngoại vi của Ki-ri-át Giê-a-rim; ranh giới ấy chạy từ đó qua hướng tây, rồi đi về hướng Suối Nước Nép-tô-a; 16 ranh giới ấy lại chạy xuống cho đến hết rặng núi nằm đối diện với Thung Lũng Bên Hin-nôm, tức là ở đầu phía bắc của Thung Lũng Rê-pha-im; từ đó nó chạy xuống Thung Lũng Bên Hin-nôm, dọc theo triền núi phía nam của dân Giê-bu-si, và tiếp tục chạy xuống đến Ên Rô-ghên. 17 Từ đó nó bẻ ngược lên hướng bắc, đi về hướng Ên Sê-mếch, rồi đi tiếp về Ghê-li-lốt, tức đối ngang với Dốc A-đum-mim; từ đó nó chạy xuống Vầng Ðá của Bô-han (Bô-han là con trai của Ru-bên), 18 rồi tiếp tục chạy dọc theo triền núi phía bắc, đối ngang A-ra-ba; 19 từ đó ranh giới đi theo triền núi phía bắc của Bết Hốc-la; rồi ranh giới dừng lại ở vịnh cực bắc của Biển Muối, tức tại cửa sông cực nam của Sông Giô-đanh. Ðó là ranh giới phía nam của họ. 20 Sông Giô-đanh là ranh giới phía đông của họ. Ðó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, chia theo gia tộc của họ, với các ranh giới chung quanh. | ||
+ | |||
+ | 21 Khi ấy các thành của chi tộc Bên-gia-min chia theo gia tộc của họ là Giê-ri-cô, Bết Hốc-la, Ê-méc Kê-xi, 22 Bết A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, 23 A-vim, Pa-ra, Óp-ra, 24 Kê-pha Am-mô-ni, Óp-ni, và Ghê-ba – mười hai thành với các làng trực thuộc các thành ấy. 25 Ghi-bê-ôn, Ra-ma, Bê-e-rốt, 26 Mích-pê, Kê-phi-ra, Mô-za, 27 Rê-kem, Ia-pê-ên, Ta-ra-la, 28 Xê-la, Ha-ê-lép, Giê-bu, tức Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-a, và Ki-ri-át Giê-a-rim – mười bốn thành với các làng trực thuộc các thành ấy. | ||
+ | |||
+ | Ðó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, chia theo gia tộc của họ. | ||
+ | |||
==Tài Liệu== | ==Tài Liệu== | ||
− | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch | + | |
+ | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại | ||
:* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu | ||
+ | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành | ||
+ | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành | ||
+ | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành | ||
+ | :* [[Xuất Ê-díp-tô Ký]] | ||
+ | :* [[Phục Truyền Luật Lệ Ký]] | ||
:* [[Giô-suê]] | :* [[Giô-suê]] | ||
− | :* [[ | + | :* [[Giô-suê: Chương 17]] |
+ | :* [[Giô-suê: Chương 19]] | ||
+ | :* [[Các Quan Xét]] |
Bản hiện tại lúc 01:04, ngày 15 tháng 10 năm 2024
Bản Dịch Việt Ngữ
1. Tất cả hội chúng của dân Y-sơ-ra-ên đã nhóm hiệp tại Si-lô và họ đã dựng Lều Hội Kiến tại đó. Toàn xứ đã bị khuất phục trước mặt của họ.
2. Nhưng trong dân Y-sơ-ra-ên vẫn còn bảy chi tộc chưa được phân chia sản nghiệp. 3. Giô-suê nói với dân Y-sơ-ra-ên: Các ngươi còn chần chờ cho đến khi nào mới đi chiếm xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi đã ban cho các ngươi? 4. Giữa vòng các ngươi, mỗi chi tộc hãy chỉ định ba người, rồi ta sẽ sai họ đi. Họ sẽ đứng dậy đi khắp xứ, khảo cứu địa hình, rồi trở về cùng ta. 5. Họ sẽ chia xứ làm bảy phần. Giu-đa sẽ giữ nguyên địa phận của mình ở miền nam. Nhà Giô-sép sẽ giữ nguyên địa phận của mình ở miền bắc. 6. Vì vậy, các ngươi hãy khảo sát xứ, rồi chia làm bảy phần, và đem đến đây cho ta. Ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại đây trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta. 7. Tuy nhiên, người Lê-vi không được lãnh phần đất nào giữa vòng các ngươi bởi vì chức vụ tế lễ cho Đức Giê-hô-va là cơ nghiệp của họ. Gát, Ru-bên, và phân nửa chi tộc Ma-na-se đã nhận sản nghiệp của họ ở phía đông của sông Giô-đanh mà Môi-se, đầy tớ của Đức Giê-hô-va, đã ban cho họ.
8. Những người đó đã đứng dậy ra đi. Giô-suê truyền cho họ đi khảo sát địa hình, và nói: Hãy đi xuyên suốt cả xứ, khảo sát nó, rồi trở lại với ta. Ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại đây - tại Si-lô - trước mặt Đức Giê-hô-va. 9. Vì vậy những người đó đã đi xuyên suốt cả xứ, mô tả các thành làm bảy phần trong một cuộn sách, rồi trở về doanh trại với Giô-suê tại Si-lô. 10. Giô-suê đã bắt thăm cho họ tại Si-lô trước mặt Đức Giê-hô-va. Tại đó, Giô-suê đã chia đất cho dân Y-sơ-ra-ên theo phần của họ.
11. Phần bắt thăm phân chia cho chi tộc của con cháu Bên-gia-min, theo những gia tộc của họ, ra trước. Lãnh thổ bắt thăm của họ nằm giữa lãnh thổ của con cháu Giu-đa và của con cháu Giô-sép. 12. Về phía bắc, ranh giới của họ từ sông Giô-đanh, ranh giới đi dọc theo triền núi phía bắc của Giê-ri-cô, rồi đi lên xuyên qua vùng núi ở hướng tây, và dừng lại tại hoang mạc Bết A-vên. 13. Từ đó ranh giới chạy thẳng về hướng về Lu-xơ đến phía nam của Lu-xơ, tức là Bê-tên, rồi chạy xuống A-ta-rốt A-đa, gần ngọn đồi về phía nam của Bết Hô-rôn Hạ. 14. Ranh giới tiếp tục đi vòng từ phía tây qua phía nam, tức là từ núi đối diện Bết Hô-rôn về phía nam, rồi dừng lại tại Ki-ri-át Ba-anh, tức là Ki-ri-át Giê-a-rim, là thành của con cháu Giu-đa. Đó là ranh giới phía tây. 15. Ranh giới phía nam bắt đầu từ ngoại thành của Ki-ri-át Giê-a-rim, ranh giới chạy về hướng tây, đến dòng suối thuộc lưu vực của Nép-thô-ách. 16. Ranh giới đi xuống đến chân núi đối diện thung lũng Bên Hi-nôm, đến phía bắc của thung lũng Rê-pha-im, chạy xuống thung lũng Hi-nôm, hướng về phía nam của Giê-bu, rồi xuống đến Ên Rô-ghên. 17. Từ đó nó vòng lên hướng bắc, đến Ên-sê-mết, tiếp tục chạy về Ghê-li-lốt, đối ngang đèo A-đu-mim, chạy xuống vầng đá Bô-han thuộc về con cháu của Ru-bên. 18. Ranh giới chạy ngang qua sườn núi phía bắc của Bết A-ra-ba, rồi xuống đến A-ra-ba. 19. Ranh giới quay sang sườn núi phía bắc của Bết Hốt-la, tiếp giáp vịnh phía bắc của Biển Muối tại cửa sông phía nam của Giô-đanh. Đó là ranh giới về phía nam. 20. Sông Giô-đanh là ranh giới phía đông của họ. Ðó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, được phân chia theo những gia tộc của họ, cùng với những ranh giới bao quanh.
21. Những thành phố của chi tộc thuộc con cháu Bên-gia-min, theo những gia tộc của họ, đó là:
Giê-ri-cô, Bết Hốt-la, Ê-méc-kê-sít, 22. Bết A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, 23. A-vim, Pha-ra, Óp-ra, 24. Kê-pha A-mô-nai, Óp-ni, và Ghê-ba: Tất cả là mười hai thành và những làng mạc của chúng.
25. Ga-ba-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt, 26. Mích-pê, Kê-phi-ra, Một-sa, 27. Rê-kem, Giệt-bê-ên, Tha-rê-a-la, 28. Xê-la, Ê-lép, Giê-bu, tức là Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-át, Ki-ri-át. Tất cả là mười bốn thành với những làng mạc của chúng.
Đó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min theo từng gia tộc của họ.
Bản Dịch 1925
1. Cả hội chúng dân Y-sơ-ra-ên nhóm hiệp tại Si-lô, và lập hội mạc tại đó: xứ đều phục trước mặt họ. 2. Nhưng trong dân Y-sơ-ra-ên còn lại bảy chi phái mà người ta chưa phân phát phần sản nghiệp cho. 3. Giô-suê bèn nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Các ngươi lần lữa cho đến chừng nào, không đi chiếm xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi ban cho các ngươi? 4. Hãy chọn từng chi phái ba người, rồi ta sẽ sai đi; các người này sẽ đứng dậy đi khắp xứ, lấy địa đồ để phân chia, rồi sẽ trở về cùng ta. 5. Họ sẽ chia xứ làm bảy phần; Giu-đa sẽ ở trong giới hạn mình nơi miền nam; còn nhà Giô-sép ở trong giới hạn mình nơi miền bắc. 6. Vậy, các ngươi hãy lấy địa đồ của xứ làm bảy phần, đem về đây cho ta; rồi ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại đây trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta. 7. Nhưng không có phần cho người Lê-vi tại giữa các ngươi; bởi vì chức tế lễ của Đức Giê-hô-va là sản nghiệp của các người đó; còn Gát, Ru-bên, và phân nửa chi phái Ma-na-se đã lãnh phần sản nghiệp mà Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã ban cho họ ở bên kia sông Giô-đanh về phía đông.
8. Vậy, các người ấy đứng dậy đi; Giô-suê truyền lịnh cho các người đi đặng lấy địa đồ của xứ, mà rằng: Hãy đi khắp xứ lấy địa đồ, rồi trở về cùng ta; ta sẽ bắt thăm tại đây cho các ngươi trước mặt Đức Giê-hô-va ở Si-lô. 9. Các người ấy bèn đi khắp xứ, vẽ địa đồ trên một quyển sách chia làm bảy phần, tùy theo các thành; rồi trở về cùng Giô-suê ở trại quân tại Si-lô. 10. Giô-suê bèn bắt thăm cho chúng tại Si-lô, trước mặt Đức Giê-hô-va; tại đó Giô-suê chia xứ ra cho dân Y-sơ-ra-ên, tùy theo các chi phái của họ.
11. Thăm trúng nhằm chi phái Bên-gia-min, tùy theo những họ hàng của chúng, và địa phận mà thăm chỉ định, ở nhằm giữa chi phái Giu-đa và chi phái Giô-sép.
12. Giới hạn của Bên-gia-min về phía bắc chạy từ Giô-đanh, đi lên phía sau Giê-ri-cô về hướng bắc; đoạn bò lên núi, rồi giáp đồng vắng Bết-A-ven. 13. Từ đó giới hạn đi ngang sau lưng Lu-xơ, cũng gọi là Bê-tên, tại phía nam, rồi chạy xuống A-ta-rốt-A-đa ở gần núi về phía nam Bết-Hô-rôn dưới. 14. Giới hạn giăng vòng từ phía tây về hướng nam, tức từ núi đối ngang Bết-Hô-rôn về phía nam; rồi giáp Ki-ri-át-Ba-anh, tức là Ki-ri-át-Giê-a-rim, thành của người Giu-đa. Đó là miền tây.
15. Miền nam khởi từ đầu Ki-ri-át-Giê-a-rim; giới hạn cứ chạy về phía tây, thẳng đến suối nước Nép-thô-ách; 16. rồi nó xuống đến đuôi núi nằm ngang trũng con trai Hi-nôm ở trong trũng Rê-pha-im, tại phía bắc; nó chạy xuống dọc theo trũng Hi-nôm ở sau lưng Giê-bu-sít, về phía nam, đoạn xuống đến Ên-Rô-ghên. 17. Giới hạn chạy về hướng bắc đến Ên-Sê-mết; từ đó thẳng về Ghê-li-lốt ở đối ngang dốc A-đu-mim, rồi chạy xuống đến hòn đá Bô-han, là con trai Ru-bên; 18. đoạn, nó đi ngang A-ra-ba về hướng bắc, và chạy xuống A-ra-ba. 19. Giới hạn liền đi ngang qua phía sau Bết-Hốt-la về hướng bắc, rồi giáp phía Biển mặn về hướng bắc ở đầu phía nam của sông Giô-đanh. Đó là giới hạn về phía nam. 20. Về phía đông nó giáp sông Giô-đanh. Đó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, và giới hạn về bốn phía, tùy theo những họ hàng của chúng.
21. Các thành của chi phái Bên-gia-min, tùy theo những họ hàng của chúng, là: Giê-ri-cô, Bết-Hôt-la, Ê-méc-kê-sít, 22. Bết-a-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, 23. A-vim, Pha-ra, Óp-ra, 24. Kê-pha-A-mô-nai, Óp-ni, và Ghê-ba: hết thảy mười hai thành và các làng của nó; 25. Ga-ba-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt, 26. Mít-bê, Kê-phi-ra, Một-sa, 27. Rê-kem, Giệt-bê-ên, Tha-rê-a-la, 28. Xê-la, Ê-lép, Giê-bu, tức là Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-át, Ki-ri-át: hết thảy mười bốn thành với các làng của nó. Đó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, tùy theo những họ hàng của chúng.
Bản Dịch 2011
Lãnh Thổ của Các Chi Tộc Còn Lại
1 Bấy giờ toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên nhóm lại tại Si-lô và dựng Lều Hội Kiến tại đó. Lúc ấy xứ đã bị khuất phục trước mặt họ rồi. 2 Trong I-sơ-ra-ên vẫn còn bảy chi tộc chưa được chia phần sản nghiệp. 3 Vì thế Giô-suê nói với dân I-sơ-ra-ên, “Cho đến bao giờ anh chị em mới chịu đi vào chiếm lấy xứ mà CHÚA, Ðức Chúa Trời của tổ tiên anh chị em, đã ban cho anh chị em làm sản nghiệp? 4 Anh chị em hãy chọn cho tôi ba người trong mỗi chi tộc, để tôi sẽ sai họ đi, hầu họ có thể đứng dậy, đi khắp xứ, ghi rõ địa hình của những phần đất các chi tộc sẽ nhận làm sản nghiệp, rồi sẽ trở về đây báo cáo cho tôi. 5 Họ sẽ chia xứ còn lại ra làm bảy phần. Chi tộc Giu-đa sẽ ở trong lãnh thổ đã chia cho họ ở phía nam, còn nhà Giô-sép sẽ ở trong lãnh thổ đã chia cho họ ở phía bắc. 6 Anh chị em sẽ chia xứ còn lại ra làm bảy phần, rồi mang bản đồ có ghi rõ địa hình về đây cho tôi. Tôi sẽ cho anh chị em bắt thăm chia đất tại đây, trước thánh nhan CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta. 7 Dĩ nhiên người Lê-vi sẽ không được chia phần đất nào ở giữa anh chị em, vì chức vụ tư tế cho CHÚA là phần sản nghiệp của họ rồi. Còn chi tộc Gát, chi tộc Ru-bên, và phân nửa chi tộc Ma-na-se đã nhận phần sản nghiệp của họ ở phía đông Sông Giô-đanh, mà Môi-se tôi tớ của CHÚA đã ban cho họ.”
8 Vậy những người ấy đứng dậy và lên đường. Giô-suê ra lịnh cho những người đi vẽ bản đồ của xứ rằng, “Hãy đi khắp xứ và ghi rõ địa hình của nó, rồi trở về đây với tôi. Tôi sẽ cho anh em bắt thăm tại đây, trước thánh nhan CHÚA ở Si-lô.”
9 Vậy những người ấy ra đi, quan sát khắp xứ, vẽ bản đồ, liệt kê các thành, chia xứ làm bảy phần, và ghi chép vào một cuộn sách, rồi trở về doanh trại với Giô-suê tại Si-lô. 10 Kế đó Giô-suê cho họ bắt thăm tại Si-lô, trước thánh nhan CHÚA, và tại đó Giô-suê đã chia xứ cho dân I-sơ-ra-ên, mỗi chi tộc một phần.
Lãnh Thổ của Chi Tộc Bên-gia-min
11 Chi tộc của con cháu Bên-gia-min, theo các gia tộc của họ, được trúng thăm trước hết. Lãnh thổ họ bắt thăm được nằm ở giữa lãnh thổ của con cháu Giu-đa và con cháu Giô-sép. 12 Về phía bắc, ranh giới của họ bắt đầu từ Sông Giô-đanh đi dọc theo triền núi phía bắc của Giê-ri-cô, rồi đi lên cao nguyên ở hướng tây, và chấm dứt ở Ðồng Hoang Bết A-vên. 13 Từ đó ranh giới ấy chạy dọc theo sườn núi, trực chỉ Lu-xơ ở hướng nam, rồi chạy dọc theo triền Lu-xơ, tức Bê-tên; ranh giới ấy lại tiếp tục đi xuống A-ta-rốt Át-đa, chạy dọc theo rặng núi nằm về phía nam của miền dưới Bết Hô-rôn. 14 Ranh giới ấy chuyển hướng, chạy theo sườn núi phía tây để đi về hướng nam, rồi từ trên núi ở phía nam đối ngang Bết Hô-rôn tiếp tục chạy về hướng nam, và dừng lại tại Ki-ri-át Ba-anh, tức Ki-ri-át Giê-a-rim, một thành thuộc về con cháu Giu-đa. Ðó là ranh giới phía tây của họ. 15 Ranh giới phía nam bắt đầu từ ngoại vi của Ki-ri-át Giê-a-rim; ranh giới ấy chạy từ đó qua hướng tây, rồi đi về hướng Suối Nước Nép-tô-a; 16 ranh giới ấy lại chạy xuống cho đến hết rặng núi nằm đối diện với Thung Lũng Bên Hin-nôm, tức là ở đầu phía bắc của Thung Lũng Rê-pha-im; từ đó nó chạy xuống Thung Lũng Bên Hin-nôm, dọc theo triền núi phía nam của dân Giê-bu-si, và tiếp tục chạy xuống đến Ên Rô-ghên. 17 Từ đó nó bẻ ngược lên hướng bắc, đi về hướng Ên Sê-mếch, rồi đi tiếp về Ghê-li-lốt, tức đối ngang với Dốc A-đum-mim; từ đó nó chạy xuống Vầng Ðá của Bô-han (Bô-han là con trai của Ru-bên), 18 rồi tiếp tục chạy dọc theo triền núi phía bắc, đối ngang A-ra-ba; 19 từ đó ranh giới đi theo triền núi phía bắc của Bết Hốc-la; rồi ranh giới dừng lại ở vịnh cực bắc của Biển Muối, tức tại cửa sông cực nam của Sông Giô-đanh. Ðó là ranh giới phía nam của họ. 20 Sông Giô-đanh là ranh giới phía đông của họ. Ðó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, chia theo gia tộc của họ, với các ranh giới chung quanh.
21 Khi ấy các thành của chi tộc Bên-gia-min chia theo gia tộc của họ là Giê-ri-cô, Bết Hốc-la, Ê-méc Kê-xi, 22 Bết A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, 23 A-vim, Pa-ra, Óp-ra, 24 Kê-pha Am-mô-ni, Óp-ni, và Ghê-ba – mười hai thành với các làng trực thuộc các thành ấy. 25 Ghi-bê-ôn, Ra-ma, Bê-e-rốt, 26 Mích-pê, Kê-phi-ra, Mô-za, 27 Rê-kem, Ia-pê-ên, Ta-ra-la, 28 Xê-la, Ha-ê-lép, Giê-bu, tức Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-a, và Ki-ri-át Giê-a-rim – mười bốn thành với các làng trực thuộc các thành ấy.
Ðó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, chia theo gia tộc của họ.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
- Xuất Ê-díp-tô Ký
- Phục Truyền Luật Lệ Ký
- Giô-suê
- Giô-suê: Chương 17
- Giô-suê: Chương 19
- Các Quan Xét