Khác biệt giữa các bản “Nê-hê-mi: Chương 9”

Từ Thư Viện Tin Lành
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm
(Tạo trang mới với nội dung “==Bản Dịch 1926== 1. Ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại, cữ ăn, mặc bao và phủ bụi đất. 2. Dòng Y-sơ-r…”)
 
Dòng 1: Dòng 1:
 
==Bản Dịch 1926==
 
==Bản Dịch 1926==
1.  Ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại, cữ ăn, mặc bao và phủ bụi đất. 2.  Dòng Y-sơ-ra-ên chia rẽ các người ngoại, đứng dậy xưng tội lỗi mình và sự gian ác của tổ phụ mình. 3.  Chúng đứng dậy tại chỗ mình, đọc trong sách luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, lâu đến phần tư ngày: trong một phần tư khác, chúng xưng tội và thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. 4.  Bấy giờ, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Kê-na-ni, đứng dậy tại trên sạp người Lê-vi, và kêu cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. 5.  Khi ấy những người Lê-vi, là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Phê-ta-hia nói rằng: Hãy đứng dậy, ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là Đấng hằng có đời đời kiếp kiếp! Đáng ngợi khen danh vinh hiển của Ngài, vẫn trổi cao hơn các sự chúc tụng và các lời khen ngợi. 6.  Ôi! chỉ một mình Chúa là Đức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa. 7.  Chúa ôi! Chúa là Giê-hô-va Đức Chúa Trời mà đã chọn Áp-ram, đem người ra khỏi U-rơ của dân Canh-đê, và ban cho người tên Áp-ra-ham. 8.  Chúa thấy lòng người trung thành tại trước mặt Chúa, và Chúa lập giao ước với người, đặng ban cho dòng dõi người xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-rê-ga-sít; Chúa có làm ứng nghiệm lời của Chúa, vì Chúa là công bình. 9.  Chúa có thấy sự khốn khổ của tổ phụ chúng tôi tại Ê-díp-tô, có nghe tiếng kêu la của chúng tại bên Biển đỏ, 10.  làm những dấu kỳ phép lạ nơi Pha-ra-ôn, nơi đầy tớ người và nơi toàn dân sự của nước người; vì Chúa biết rằng họ có đối đãi tổ phụ chúng tôi cách kiêu căng, và Chúa có làm nổi danh Chúa như thể ngày nay. 11.  Chúa có phân rẽ biển trước mặt chúng nó, để chúng nó đi ngang qua giữa biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo, Chúa bèn ném họ dưới vực sâu, như ném đá trong nước lớn. 12.  Ban ngày, Chúa dẫn dắt chúng bằng một trụ mây, và ban đêm bằng một trụ lửa, để chiếu sáng cho chúng trong con đường phải đi theo. 13.  Chúa cũng giáng lâm tại trên núi Si-na-i, phán với chúng từ trên trời, ban cho chúng những luật lệ ngay thẳng, pháp độ chân thật, và những qui tắc cùng điều răn tốt lành. 14.  Chúa khiến cho chúng biết ngày sa-bát thánh của Chúa, cậy Môi-se, tôi tớ của Chúa, truyền cho chúng những điều răn, qui tắc, và luật pháp. 15.  Từ các từng trời, Chúa ban cho chúng bánh đặng ăn đói, khiến hòn đá chảy ra nước cho chúng uống khát, phán biểu chúng vào nhận lấy xứ mà Chúa đã thề ban cho chúng. 16.  Nhưng tổ phụ chúng tôi cư xử cách kiêu hãnh cứng cổ mình, không nghe các điều răn của Chúa, 17.  chẳng khứng vâng theo và không nhớ đến các phép lạ mà Chúa đã làm giữa chúng; nhưng chúng cứng cổ mình, và trong sự bội nghịch mình cắt một kẻ làm đầu đặng trở về nơi nô lệ của họ. Nhưng Chúa vốn một Đức Chúa Trời sẵn tha thứ, hay làm ơn, và thương xót, chậm nóng giận, và dư đầy nhân từ, Chúa không có lìa bỏ chúng. 18.  Dẫu khi chúng làm một con bò con đực, mà rằng: Nầy là thần đã dẫn các ngươi lên khỏi Ê-díp-tô, và chọc cho Chúa giận nhiều, 19.  thì Chúa vì sự thương xót của Chúa, không lìa bỏ chúng trong đồng vắng; trụ mây dẫn đường ban ngày, không lìa khỏi trên chúng, hoặc trụ lửa lúc ban đêm chiếu sáng và chỉ cho chúng con đường chúng phải đi. 20.  Chúa cũng ban cho chúng Thần linh lương thiện của Chúa, để dạy dỗ cho chúng, không từ chối cho miệng chúng ăn ma-na, và ban cho chúng nước đặng uống khát. 21.  Phải, Chúa nuôi dưỡng chúng bốn mươi năm trong đồng vắng: chúng chẳng thiếu thốn chi cả; quần áo chúng không cũ rách, và chân chúng chẳng phù lên. 22.  Vả lại, Chúa ban cho chúng những nước và dân tộc, và phân phát nước ấy cho chúng; chúng nhận được nước của Si-hôn, tức nước của vua Hết-bôn, và nước của Óc, vua Ba-san. 23.  Chúa cũng thêm nhiều con cháu chúng đông như sao trên trời, đưa chúng vào xứ mà Chúa đã phán cùng tổ phụ chúng rằng chúng sẽ vào đó đặng nhận lấy xứ ấy. 24.  Vậy, con cháu chúng bèn vào và nhận lấy xứ, và Chúa bắt phục trước mặt họ các dân của xứ, là dân Ca-na-an, phó dân ấy và những vua chúng nó cùng các dân tộc của xứ vào tay họ, đặng họ đãi các dân ấy theo ý mình muốn. 25.  Họ chiếm lấy những thành bền vững, và ruộng đất mầu mỡ, được những nhà đầy các vật tốt lành, nhưng giếng đào, vườn nho, vườn ô-li-ve, và cây trái rất nhiều; chúng ăn, bèn được no nê, và mập béo, vui lòng trong sự nhân từ lớn lao của Chúa. 26.  Dầu vậy, chúng chẳng vâng theo, bèn phản nghịch với Chúa, ném bỏ luật pháp Chúa sau lưng, giết các đấng tiên tri của Chúa, là người làm chứng nghịch cùng họ đặng đem họ trở lại cùng Chúa; song chúng lại chọc giận Chúa nhiều thay. 27.  Vì vậy, Chúa phó họ vào tay cừu địch của họ; chúng nó hà hiếp họ. Trong thời hoạn nạn chúng kêu cầu cùng Chúa, thì từ các từng trời Chúa có nghe đến; theo lòng nhân từ lớn lao của Chúa, Chúa bèn ban cho những đấng giải cứu để cứu chúng khỏi tay kẻ cừu địch mình. 28.  Nhưng khi chúng được an tịnh, bèn khởi làm lại điều ác trước mặt Chúa; vì vậy, Chúa bỏ chúng vào tay kẻ thù nghịch để quản hạt chúng; song khi chúng trở lại, kêu cầu cùng Chúa, thì Chúa từ trên trời nghe đến, và vì lòng thương xót Chúa, nên giải cứu chúng nhiều lần. 29.  Chúa cũng làm chứng nghịch cùng chúng, để dẫn dắt chúng trở lại luật pháp của Ngài. Dầu vậy, chúng cư xử cách kiêu ngạo không nghe các điều răn Chúa, phạm đến luật lệ của Chúa, là luật lệ nếu người nào vâng làm theo, tất sẽ được sống; chúng ở chấp nhất, cứng cổ mình, và không khứng nghe theo. 30.  Chúa dung thứ chúng nhiều năm và cậy Thần linh và các tiên tri của Chúa mà làm chứng nghịch cùng chúng; nhưng chúng không lắng tai nghe, nên Chúa phó chúng vào tay dân tộc của các xứ. 31.  Song, vì lòng thương xót lớn lao của Chúa, Chúa không có tận diệt chúng, cũng không lìa bỏ chúng; vì Chúa vốn là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ. 32.  Vậy bây giờ, hỡi Đức Chúa Trời của chúng tôi ơi! là Đức Chúa Trời rất lớn rất quyền năng và đáng sợ, hằng giữ giao ước và sự nhân từ, xin chớ coi nhỏ mọn trước mặt Chúa các việc đau đớn cực nhọc đã giáng trên chúng tôi, trên các vua và các quan trưởng, trên những thầy tế lễ và các tiên tri, trên tổ phụ chúng tôi, và trên hết thảy dân sự của Chúa, từ đời các vua A-si-ri cho đến ngày nay. 33.  Trong mọi việc đã xảy đến cho chúng tôi, Chúa vẫn là công bình; vì Chúa thi hành cách chân thật, còn chúng tôi lại làm cách hung ác. 34.  Các vua chúng tôi, các quan trưởng, những thầy tế lễ, và tổ phụ chúng tôi, không có gìn giữ luật pháp của Chúa, cũng chẳng nghe theo các điều răn và chứng cớ mà Chúa phán dạy nghịch cùng chúng. 35.  Tại trong xứ của chúng, giữa điều ơn lành dư dật mà Chúa đã ban cho chúng, tại trong đất rộng rãi và màu mỡ mà Chúa đã đặt trước mặt chúng, chúng không phục sự Chúa, chẳng trở bỏ các công việc ác của họ. 36.  Kìa, ngày nay chúng tôi làm tôi mọi; này chúng tôi làm tôi trong xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi để ăn bông trái và thổ sản tốt tươi của nó. 37.  Xứ sanh ra nhiều thổ sản cho các vua mà Chúa đã lập trên chúng tôi tại cớ tội lỗi của chúng tôi: các vua ấy cũng tự ý mình lấn lướt trên thân thể chúng tôi và các súc vật của chúng tôi, và chúng tôi đang bị hoạn nạn lớn. 38.  Dầu các sự này, chúng tôi lập giao ước chắc chắn, và chúng tôi ghi chép nó các quan trưởng, người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng tôi đóng ấn cho. <br/>
+
1.  Ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại, cữ ăn, mặc bao và phủ bụi đất. 2.  Dòng Y-sơ-ra-ên chia rẽ các người ngoại, đứng dậy xưng tội lỗi mình và sự gian ác của tổ phụ mình. 3.  Chúng đứng dậy tại chỗ mình, đọc trong sách luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, lâu đến phần tư ngày: trong một phần tư khác, chúng xưng tội và thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. 4.  Bấy giờ, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Kê-na-ni, đứng dậy tại trên sạp người Lê-vi, và kêu cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.  
 +
 
 +
5.  Khi ấy những người Lê-vi, là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Phê-ta-hia nói rằng: Hãy đứng dậy, ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là Đấng hằng có đời đời kiếp kiếp! Đáng ngợi khen danh vinh hiển của Ngài, vẫn trổi cao hơn các sự chúc tụng và các lời khen ngợi. 6.  Ôi! chỉ một mình Chúa là Đức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa. 7.  Chúa ôi! Chúa là Giê-hô-va Đức Chúa Trời mà đã chọn Áp-ram, đem người ra khỏi U-rơ của dân Canh-đê, và ban cho người tên Áp-ra-ham. 8.  Chúa thấy lòng người trung thành tại trước mặt Chúa, và Chúa lập giao ước với người, đặng ban cho dòng dõi người xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-rê-ga-sít; Chúa có làm ứng nghiệm lời của Chúa, vì Chúa là công bình.  
 +
 
 +
9.  Chúa có thấy sự khốn khổ của tổ phụ chúng tôi tại Ê-díp-tô, có nghe tiếng kêu la của chúng tại bên Biển đỏ, 10.  làm những dấu kỳ phép lạ nơi Pha-ra-ôn, nơi đầy tớ người và nơi toàn dân sự của nước người; vì Chúa biết rằng họ có đối đãi tổ phụ chúng tôi cách kiêu căng, và Chúa có làm nổi danh Chúa như thể ngày nay. 11.  Chúa có phân rẽ biển trước mặt chúng nó, để chúng nó đi ngang qua giữa biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo, Chúa bèn ném họ dưới vực sâu, như ném đá trong nước lớn. 12.  Ban ngày, Chúa dẫn dắt chúng bằng một trụ mây, và ban đêm bằng một trụ lửa, để chiếu sáng cho chúng trong con đường phải đi theo. 13.  Chúa cũng giáng lâm tại trên núi Si-na-i, phán với chúng từ trên trời, ban cho chúng những luật lệ ngay thẳng, pháp độ chân thật, và những qui tắc cùng điều răn tốt lành. 14.  Chúa khiến cho chúng biết ngày sa-bát thánh của Chúa, cậy Môi-se, tôi tớ của Chúa, truyền cho chúng những điều răn, qui tắc, và luật pháp. 15.  Từ các từng trời, Chúa ban cho chúng bánh đặng ăn đói, khiến hòn đá chảy ra nước cho chúng uống khát, phán biểu chúng vào nhận lấy xứ mà Chúa đã thề ban cho chúng.  
 +
 
 +
16.  Nhưng tổ phụ chúng tôi cư xử cách kiêu hãnh cứng cổ mình, không nghe các điều răn của Chúa, 17.  chẳng khứng vâng theo và không nhớ đến các phép lạ mà Chúa đã làm giữa chúng; nhưng chúng cứng cổ mình, và trong sự bội nghịch mình cắt một kẻ làm đầu đặng trở về nơi nô lệ của họ. Nhưng Chúa vốn một Đức Chúa Trời sẵn tha thứ, hay làm ơn, và thương xót, chậm nóng giận, và dư đầy nhân từ, Chúa không có lìa bỏ chúng. 18.  Dẫu khi chúng làm một con bò con đực, mà rằng: Nầy là thần đã dẫn các ngươi lên khỏi Ê-díp-tô, và chọc cho Chúa giận nhiều, 19.  thì Chúa vì sự thương xót của Chúa, không lìa bỏ chúng trong đồng vắng; trụ mây dẫn đường ban ngày, không lìa khỏi trên chúng, hoặc trụ lửa lúc ban đêm chiếu sáng và chỉ cho chúng con đường chúng phải đi. 20.  Chúa cũng ban cho chúng Thần linh lương thiện của Chúa, để dạy dỗ cho chúng, không từ chối cho miệng chúng ăn ma-na, và ban cho chúng nước đặng uống khát. 21.  Phải, Chúa nuôi dưỡng chúng bốn mươi năm trong đồng vắng: chúng chẳng thiếu thốn chi cả; quần áo chúng không cũ rách, và chân chúng chẳng phù lên.  
 +
 
 +
22.  Vả lại, Chúa ban cho chúng những nước và dân tộc, và phân phát nước ấy cho chúng; chúng nhận được nước của Si-hôn, tức nước của vua Hết-bôn, và nước của Óc, vua Ba-san. 23.  Chúa cũng thêm nhiều con cháu chúng đông như sao trên trời, đưa chúng vào xứ mà Chúa đã phán cùng tổ phụ chúng rằng chúng sẽ vào đó đặng nhận lấy xứ ấy. 24.  Vậy, con cháu chúng bèn vào và nhận lấy xứ, và Chúa bắt phục trước mặt họ các dân của xứ, là dân Ca-na-an, phó dân ấy và những vua chúng nó cùng các dân tộc của xứ vào tay họ, đặng họ đãi các dân ấy theo ý mình muốn. 25.  Họ chiếm lấy những thành bền vững, và ruộng đất mầu mỡ, được những nhà đầy các vật tốt lành, nhưng giếng đào, vườn nho, vườn ô-li-ve, và cây trái rất nhiều; chúng ăn, bèn được no nê, và mập béo, vui lòng trong sự nhân từ lớn lao của Chúa.  
 +
 
 +
26.  Dầu vậy, chúng chẳng vâng theo, bèn phản nghịch với Chúa, ném bỏ luật pháp Chúa sau lưng, giết các đấng tiên tri của Chúa, là người làm chứng nghịch cùng họ đặng đem họ trở lại cùng Chúa; song chúng lại chọc giận Chúa nhiều thay. 27.  Vì vậy, Chúa phó họ vào tay cừu địch của họ; chúng nó hà hiếp họ. Trong thời hoạn nạn chúng kêu cầu cùng Chúa, thì từ các từng trời Chúa có nghe đến; theo lòng nhân từ lớn lao của Chúa, Chúa bèn ban cho những đấng giải cứu để cứu chúng khỏi tay kẻ cừu địch mình. 28.  Nhưng khi chúng được an tịnh, bèn khởi làm lại điều ác trước mặt Chúa; vì vậy, Chúa bỏ chúng vào tay kẻ thù nghịch để quản hạt chúng; song khi chúng trở lại, kêu cầu cùng Chúa, thì Chúa từ trên trời nghe đến, và vì lòng thương xót Chúa, nên giải cứu chúng nhiều lần. 29.  Chúa cũng làm chứng nghịch cùng chúng, để dẫn dắt chúng trở lại luật pháp của Ngài. Dầu vậy, chúng cư xử cách kiêu ngạo không nghe các điều răn Chúa, phạm đến luật lệ của Chúa, là luật lệ nếu người nào vâng làm theo, tất sẽ được sống; chúng ở chấp nhất, cứng cổ mình, và không khứng nghe theo. 30.  Chúa dung thứ chúng nhiều năm và cậy Thần linh và các tiên tri của Chúa mà làm chứng nghịch cùng chúng; nhưng chúng không lắng tai nghe, nên Chúa phó chúng vào tay dân tộc của các xứ. 31.  Song, vì lòng thương xót lớn lao của Chúa, Chúa không có tận diệt chúng, cũng không lìa bỏ chúng; vì Chúa vốn là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ.  
 +
 
 +
32.  Vậy bây giờ, hỡi Đức Chúa Trời của chúng tôi ơi! là Đức Chúa Trời rất lớn rất quyền năng và đáng sợ, hằng giữ giao ước và sự nhân từ, xin chớ coi nhỏ mọn trước mặt Chúa các việc đau đớn cực nhọc đã giáng trên chúng tôi, trên các vua và các quan trưởng, trên những thầy tế lễ và các tiên tri, trên tổ phụ chúng tôi, và trên hết thảy dân sự của Chúa, từ đời các vua A-si-ri cho đến ngày nay. 33.  Trong mọi việc đã xảy đến cho chúng tôi, Chúa vẫn là công bình; vì Chúa thi hành cách chân thật, còn chúng tôi lại làm cách hung ác. 34.  Các vua chúng tôi, các quan trưởng, những thầy tế lễ, và tổ phụ chúng tôi, không có gìn giữ luật pháp của Chúa, cũng chẳng nghe theo các điều răn và chứng cớ mà Chúa phán dạy nghịch cùng chúng. 35.  Tại trong xứ của chúng, giữa điều ơn lành dư dật mà Chúa đã ban cho chúng, tại trong đất rộng rãi và màu mỡ mà Chúa đã đặt trước mặt chúng, chúng không phục sự Chúa, chẳng trở bỏ các công việc ác của họ. 36.  Kìa, ngày nay chúng tôi làm tôi mọi; này chúng tôi làm tôi trong xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi để ăn bông trái và thổ sản tốt tươi của nó. 37.  Xứ sanh ra nhiều thổ sản cho các vua mà Chúa đã lập trên chúng tôi tại cớ tội lỗi của chúng tôi: các vua ấy cũng tự ý mình lấn lướt trên thân thể chúng tôi và các súc vật của chúng tôi, và chúng tôi đang bị hoạn nạn lớn. 38.  Dầu các sự này, chúng tôi lập giao ước chắc chắn, và chúng tôi ghi chép nó các quan trưởng, người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng tôi đóng ấn cho. <br/>
 +
 
 
==Bản Dịch 2011==
 
==Bản Dịch 2011==
 
'''Lễ Thờ Phượng Sám Hối'''<br/>1.  Vào ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân I-sơ-ra-ên họp lại với nhau để kiêng ăn, mặc vải thô, và rắc bụi đất trên đầu. 2.  Dân I-sơ-ra-ên tự tách biệt họ ra khỏi mọi người thuộc các chủng tộc khác. Họ đứng dậy xưng tội của họ và tội của tổ tiên họ. 3.  Họ đứng tại chỗ của họ và đọc Luật Pháp của Ðức Chúa Trời của họ trong nửa buổi, còn nửa buổi kia họ xưng tội và thờ phượng CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ. <br/>4.  Bấy giờ Ba-ni, Giê-sua, Cát-mi-ên, Sê-ba-ni-a, Bun-ni, Sê-rê-bi-a, Ba-ni, và Kê-na-ni đứng trên các bục dành cho người Lê-vi và lớn tiếng kêu cầu với CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ. 5.  Kế đó, những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bi-a, và Pê-tha-hi-a nói, “Hãy đứng dậy và ca ngợi CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, Ðấng hiện hữu từ vô cùng trong quá khứ cho đến vô cùng trong tương lai.” Họ nói tiếp, “Chúc tụng danh vinh hiển của Ngài. Nguyện danh Ngài trỗi cao trên mọi lời chúc tụng và tôn vinh.” <br/>6.  Bấy giờ Ê-xơ-ra nói, “Ôi, chỉ một mình Ngài là CHÚA, Ðấng có một không hai. Chính Ngài đã dựng nên các từng trời và trời của các từng trời, cùng toàn thể thiên binh; Ngài đã dựng nên trái đất và mọi vật trên đất, biển và mọi vật trong biển. Chính Ngài ban sự sống cho muôn loài vạn vật. Toàn thể thiên binh thiên sứ đều sấp mình xuống thờ phượng Ngài. 7.  Ngài là CHÚA, Ðức Chúa Trời, Ðấng đã chọn Áp-ram và đem ông ra khỏi U-rơ của người Canh-đê, và ban cho ông tên Áp-ra-ham. 8.  Ngài đã thấy lòng ông trung thành với Ngài, nên đã lập với ông một giao ước, ban cho dòng dõi ông đất của dân Ca-na-an, dân Hi-ti, dân A-mô-ri, dân Pê-ri-xi, dân Giê-bu-si, và dân Ghi-ga-si. Ngài đã giữ những lời hứa của Ngài, vì Ngài là Ðấng công chính. 9.  Ngài đã nhìn thấy cảnh khốn cùng của tổ tiên chúng con ở Ai-cập; Ngài đã nghe tiếng khóc than của họ bên bờ Hồng Hải. 10.  Ngài đã sai các phép lạ và các dấu kỳ của Ngài đến đối phó với Pha-ra-ôn, với bầy tôi của vua ấy, và với toàn dân trong xứ đó, vì Ngài biết rõ dân Ai-cập đã đối xử với họ cách hống hách như thế nào. Ngài đã làm cho danh Ngài được lừng lẫy cho đến ngày nay. 11.  Ngài đã rẽ biển ra trước mặt họ, để họ có thể đi qua giữa lòng biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo họ, Ngài quăng chúng vào vực thẳm như một cục đá bị ném vào dòng nước mạnh. 12.  Ngoài ra, Ngài đã dẫn đưa họ ban ngày bằng một trụ mây và ban đêm bằng một trụ lửa để soi sáng cho họ trên con đường họ phải đi qua. 13.  Ngài cũng đã ngự xuống trên Núi Si-nai; từ trời Ngài đã phán dạy họ. Ngài đã ban cho họ các mạng lịnh chính trực, các luật pháp chân chính, cùng các luật lệ và các điều răn toàn hảo. 14.  Ngài đã tỏ cho họ biết ngày Sa-bát thánh của Ngài, và đã ban cho họ các điều răn, luật lệ, và luật pháp của Ngài qua Mô-sê tôi tớ Ngài. 15.  Ðể họ khỏi đói Ngài đã ban bánh từ trời xuống cho họ ăn; để họ khỏi khát Ngài đã khiến nước ngọt từ vầng đá tuôn ra cho họ uống. Ngài đã bảo họ đi vào chiếm lấy xứ mà Ngài đã thề sẽ ban cho họ. 16.  Nhưng họ, tổ tiên của chúng con, đã ngang ngược và cứng cổ; họ đã không vâng theo các điều răn của Ngài. 17.  Họ đã không vâng lời và cũng không nhớ gì đến các phép lạ Ngài đã làm ở giữa họ, nhưng đã cứng cổ, và trong cơn phản loạn họ đã lập một kẻ lãnh đạo để dẫn họ trở về làm nô lệ. Nhưng Ngài là Ðức Chúa Trời sẵn lòng tha thứ, khoan dung độ lượng, thương xót, chậm giận, và đầy dẫy tình thương. Ngài đã không bỏ họ, 18.  ngay cả khi họ đúc cho họ một pho tượng của một con bê và nói, ‘Ðây là thần của ngươi, đấng đã dẫn ngươi ra khỏi Ai-cập,’ và như thế họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề. 19.  Dù vậy, do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không bỏ họ bơ vơ trong đồng hoang. Ban ngày trụ mây dẫn đường họ vẫn không lìa khỏi họ; ban đêm trụ lửa soi sáng họ trên con đường họ phải đi vẫn không lìa khỏi họ. 20.  Ngài đã ban Thần Linh thiện hảo của Ngài để dạy dỗ họ. Ngài đã không giữ bánh man-na khỏi miệng họ; Ngài đã ban cho họ nước ngọt để họ không bị khát. 21.  Thật vậy, trong bốn mươi năm Ngài đã bảo tồn mạng sống của họ trong đồng hoang. Họ đã chẳng thiếu thốn gì. Quần áo của họ không mòn rách, đôi chân của họ không phù lên. 22.  Hơn thế nữa, Ngài đã ban các vương quốc và các nước cho họ. Họ đã chia các nước ấy cho nhau và không chừa lại một miền nào. Họ đã chiếm lấy xứ sở của Si-hôn vua của Hếch-bôn và xứ sở của Óc vua của Ba-san. 23.  Ngài đã làm cho dòng dõi họ đông như sao trên trời, và Ngài đã đem họ vào trong xứ mà Ngài đã bảo tổ tiên họ hãy vào và chiếm lấy. 24.  Vậy con cháu họ đã vào và chiếm lấy xứ. Ngài đã bắt các dân đang ở trong xứ phải khuất phục trước mặt họ, đó là các dân Ca-na-an. Ngài đã trao vào tay họ các vua và các dân trong xứ, để họ muốn làm gì với chúng tùy ý. 25.  Họ đã chiếm lấy những thành trì kiên cố và những vùng đất màu mỡ. Họ đã chiếm lấy những ngôi nhà chứa đầy mọi thứ tốt đẹp, những giếng nước đã đào sẵn, những vườn nho, những rẫy ô-liu, và những cây ăn trái nhiều vô kể. Vậy họ đã ăn, được no nê, và trở nên mập béo. Họ đã khoan khoái hưởng thụ mọi phước hạnh lớn lao mà Ngài ban cho. 26.  Nhưng họ đã không vâng lời và đã nổi loạn chống lại Ngài. Họ đã vứt bỏ luật pháp của Ngài ra sau lưng họ. Họ đã giết các tiên tri của Ngài, những người đã khuyên bảo họ hãy trở về với Ngài. Họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề. 27.  Vì thế Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng tha hồ áp bức họ. Tuy nhiên giữa cảnh gian lao khốn khổ họ đã kêu cầu với Ngài. Từ trời cao Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã ban cho họ những nhà giải phóng, để giải thoát họ ra khỏi tay của quân thù. 28.  Nhưng vừa khi họ được nghỉ ngơi, họ lại làm những việc ác nữa trước mặt Ngài. Do đó Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng cai trị họ. Bấy giờ họ mới chịu quay về và kêu cầu với Ngài nữa. Từ trời Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Ngài đã giải cứu họ nhiều lần vì lòng thương xót của Ngài. 29.  Ngài đã cảnh cáo họ phải trở lại và vâng giữ luật pháp Ngài, nhưng họ đã quá kiêu căng tự phụ và không vâng theo các điều răn Ngài. Họ cứ phạm tội và chống lại luật lệ Ngài, luật lệ mà ai vâng theo sẽ sống. Họ đã đưa ra đôi vai ương ngạnh, làm cho cổ họ ra cứng, và không chịu nghe lời Ngài. 30.  Dù vậy, Ngài đã nhẫn nại cưu mang họ suốt bao nhiêu năm dài. Ngài đã dùng Ðức Thánh Linh của Ngài để cảnh cáo họ về tội lỗi của họ qua các vị tiên tri của Ngài. Thế nhưng, họ vẫn một mực không chịu vâng lời. Do đó, Ngài đã phó họ cho các dân ngoại vốn cư ngụ trong xứ. 31.  Tuy nhiên, do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không tuyệt diệt họ hay bỏ rơi họ, vì Ngài là Ðức Chúa Trời khoan dung độ lượng và giàu lòng thương xót. <br/>32.  Vậy, bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của chúng con, Ðức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng sợ, Ðấng luôn giữ giao ước yêu thương vô tận của Ngài, xin đừng xem tất cả những khó khăn chúng con đang gánh chịu như một việc nhỏ trước mặt Ngài. Hoạn nạn lớn đã giáng trên chúng con, trên các vua, các quan, các tư tế, các tiên tri, các tổ tiên, và tất cả dân của chúng con từ ngày các vua A-sy-ri đánh bại chúng con đến ngày nay. 33.  Ngài luôn luôn công chính mỗi khi chúng con bị đoán phạt, vì Ngài đã đối xử với chúng con cách thành tín, còn chúng con thì cứ hành động cách gian tà đối với Ngài. 34.  Không có vua nào hay quan nào của chúng con, không có tư tế nào hay tổ tiên nào của chúng con đã vâng giữ luật pháp Ngài, hoặc làm theo các điều răn Ngài, hoặc quan tâm đến những lời cảnh cáo của Ngài đối với họ. 35.  Ngược lại, khi còn nắm giữ quyền hành trong vương quốc của họ, họ đã không thờ phượng Ngài. Họ đã hưởng biết bao phước hạnh lớn lao trong đất nước phì nhiêu và rộng lớn Ngài đã ban cho họ, nhưng họ không thờ phượng Ngài và cũng không lìa bỏ những việc làm xấu xa gian tà của họ. 36.  Cho nên, giờ đây chúng con phải trở thành những kẻ nô lệ; chúng con làm nô lệ ngay trên đất nước Ngài đã ban cho tổ tiên của chúng con để họ và con cháu của họ có thể hưởng những hoa quả dẫy đầy và của cải nhiều vô kể. Xin Ngài xem, chúng con đang làm những kẻ nô lệ! 37.  Vì cớ những tội lỗi của chúng con, các hoa lợi làm ra trên đất nước nầy đều phải đem nộp cho các vua ngoại bang mà Ngài đã lập lên cai trị chúng con. Họ có quyền trên thân thể chúng con; còn súc vật của chúng con họ muốn lấy lúc nào thì lấy. Chúng con thật đang ở giữa một cơn hoạn nạn lớn.” <br/>'''Danh Sách Những Người Ký Giao Ước'''<br/>38.  Vì tất cả những lẽ đó, chúng tôi đồng lòng với nhau lập một giao ước nghiêm túc và ghi rõ xuống trên giấy trắng mực đen. Trong văn kiện được đóng ấn ấy có tên những người lãnh đạo, những người Lê-vi, và các vị tư tế. <br/>
 
'''Lễ Thờ Phượng Sám Hối'''<br/>1.  Vào ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân I-sơ-ra-ên họp lại với nhau để kiêng ăn, mặc vải thô, và rắc bụi đất trên đầu. 2.  Dân I-sơ-ra-ên tự tách biệt họ ra khỏi mọi người thuộc các chủng tộc khác. Họ đứng dậy xưng tội của họ và tội của tổ tiên họ. 3.  Họ đứng tại chỗ của họ và đọc Luật Pháp của Ðức Chúa Trời của họ trong nửa buổi, còn nửa buổi kia họ xưng tội và thờ phượng CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ. <br/>4.  Bấy giờ Ba-ni, Giê-sua, Cát-mi-ên, Sê-ba-ni-a, Bun-ni, Sê-rê-bi-a, Ba-ni, và Kê-na-ni đứng trên các bục dành cho người Lê-vi và lớn tiếng kêu cầu với CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ. 5.  Kế đó, những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bi-a, và Pê-tha-hi-a nói, “Hãy đứng dậy và ca ngợi CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, Ðấng hiện hữu từ vô cùng trong quá khứ cho đến vô cùng trong tương lai.” Họ nói tiếp, “Chúc tụng danh vinh hiển của Ngài. Nguyện danh Ngài trỗi cao trên mọi lời chúc tụng và tôn vinh.” <br/>6.  Bấy giờ Ê-xơ-ra nói, “Ôi, chỉ một mình Ngài là CHÚA, Ðấng có một không hai. Chính Ngài đã dựng nên các từng trời và trời của các từng trời, cùng toàn thể thiên binh; Ngài đã dựng nên trái đất và mọi vật trên đất, biển và mọi vật trong biển. Chính Ngài ban sự sống cho muôn loài vạn vật. Toàn thể thiên binh thiên sứ đều sấp mình xuống thờ phượng Ngài. 7.  Ngài là CHÚA, Ðức Chúa Trời, Ðấng đã chọn Áp-ram và đem ông ra khỏi U-rơ của người Canh-đê, và ban cho ông tên Áp-ra-ham. 8.  Ngài đã thấy lòng ông trung thành với Ngài, nên đã lập với ông một giao ước, ban cho dòng dõi ông đất của dân Ca-na-an, dân Hi-ti, dân A-mô-ri, dân Pê-ri-xi, dân Giê-bu-si, và dân Ghi-ga-si. Ngài đã giữ những lời hứa của Ngài, vì Ngài là Ðấng công chính. 9.  Ngài đã nhìn thấy cảnh khốn cùng của tổ tiên chúng con ở Ai-cập; Ngài đã nghe tiếng khóc than của họ bên bờ Hồng Hải. 10.  Ngài đã sai các phép lạ và các dấu kỳ của Ngài đến đối phó với Pha-ra-ôn, với bầy tôi của vua ấy, và với toàn dân trong xứ đó, vì Ngài biết rõ dân Ai-cập đã đối xử với họ cách hống hách như thế nào. Ngài đã làm cho danh Ngài được lừng lẫy cho đến ngày nay. 11.  Ngài đã rẽ biển ra trước mặt họ, để họ có thể đi qua giữa lòng biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo họ, Ngài quăng chúng vào vực thẳm như một cục đá bị ném vào dòng nước mạnh. 12.  Ngoài ra, Ngài đã dẫn đưa họ ban ngày bằng một trụ mây và ban đêm bằng một trụ lửa để soi sáng cho họ trên con đường họ phải đi qua. 13.  Ngài cũng đã ngự xuống trên Núi Si-nai; từ trời Ngài đã phán dạy họ. Ngài đã ban cho họ các mạng lịnh chính trực, các luật pháp chân chính, cùng các luật lệ và các điều răn toàn hảo. 14.  Ngài đã tỏ cho họ biết ngày Sa-bát thánh của Ngài, và đã ban cho họ các điều răn, luật lệ, và luật pháp của Ngài qua Mô-sê tôi tớ Ngài. 15.  Ðể họ khỏi đói Ngài đã ban bánh từ trời xuống cho họ ăn; để họ khỏi khát Ngài đã khiến nước ngọt từ vầng đá tuôn ra cho họ uống. Ngài đã bảo họ đi vào chiếm lấy xứ mà Ngài đã thề sẽ ban cho họ. 16.  Nhưng họ, tổ tiên của chúng con, đã ngang ngược và cứng cổ; họ đã không vâng theo các điều răn của Ngài. 17.  Họ đã không vâng lời và cũng không nhớ gì đến các phép lạ Ngài đã làm ở giữa họ, nhưng đã cứng cổ, và trong cơn phản loạn họ đã lập một kẻ lãnh đạo để dẫn họ trở về làm nô lệ. Nhưng Ngài là Ðức Chúa Trời sẵn lòng tha thứ, khoan dung độ lượng, thương xót, chậm giận, và đầy dẫy tình thương. Ngài đã không bỏ họ, 18.  ngay cả khi họ đúc cho họ một pho tượng của một con bê và nói, ‘Ðây là thần của ngươi, đấng đã dẫn ngươi ra khỏi Ai-cập,’ và như thế họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề. 19.  Dù vậy, do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không bỏ họ bơ vơ trong đồng hoang. Ban ngày trụ mây dẫn đường họ vẫn không lìa khỏi họ; ban đêm trụ lửa soi sáng họ trên con đường họ phải đi vẫn không lìa khỏi họ. 20.  Ngài đã ban Thần Linh thiện hảo của Ngài để dạy dỗ họ. Ngài đã không giữ bánh man-na khỏi miệng họ; Ngài đã ban cho họ nước ngọt để họ không bị khát. 21.  Thật vậy, trong bốn mươi năm Ngài đã bảo tồn mạng sống của họ trong đồng hoang. Họ đã chẳng thiếu thốn gì. Quần áo của họ không mòn rách, đôi chân của họ không phù lên. 22.  Hơn thế nữa, Ngài đã ban các vương quốc và các nước cho họ. Họ đã chia các nước ấy cho nhau và không chừa lại một miền nào. Họ đã chiếm lấy xứ sở của Si-hôn vua của Hếch-bôn và xứ sở của Óc vua của Ba-san. 23.  Ngài đã làm cho dòng dõi họ đông như sao trên trời, và Ngài đã đem họ vào trong xứ mà Ngài đã bảo tổ tiên họ hãy vào và chiếm lấy. 24.  Vậy con cháu họ đã vào và chiếm lấy xứ. Ngài đã bắt các dân đang ở trong xứ phải khuất phục trước mặt họ, đó là các dân Ca-na-an. Ngài đã trao vào tay họ các vua và các dân trong xứ, để họ muốn làm gì với chúng tùy ý. 25.  Họ đã chiếm lấy những thành trì kiên cố và những vùng đất màu mỡ. Họ đã chiếm lấy những ngôi nhà chứa đầy mọi thứ tốt đẹp, những giếng nước đã đào sẵn, những vườn nho, những rẫy ô-liu, và những cây ăn trái nhiều vô kể. Vậy họ đã ăn, được no nê, và trở nên mập béo. Họ đã khoan khoái hưởng thụ mọi phước hạnh lớn lao mà Ngài ban cho. 26.  Nhưng họ đã không vâng lời và đã nổi loạn chống lại Ngài. Họ đã vứt bỏ luật pháp của Ngài ra sau lưng họ. Họ đã giết các tiên tri của Ngài, những người đã khuyên bảo họ hãy trở về với Ngài. Họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề. 27.  Vì thế Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng tha hồ áp bức họ. Tuy nhiên giữa cảnh gian lao khốn khổ họ đã kêu cầu với Ngài. Từ trời cao Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã ban cho họ những nhà giải phóng, để giải thoát họ ra khỏi tay của quân thù. 28.  Nhưng vừa khi họ được nghỉ ngơi, họ lại làm những việc ác nữa trước mặt Ngài. Do đó Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng cai trị họ. Bấy giờ họ mới chịu quay về và kêu cầu với Ngài nữa. Từ trời Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Ngài đã giải cứu họ nhiều lần vì lòng thương xót của Ngài. 29.  Ngài đã cảnh cáo họ phải trở lại và vâng giữ luật pháp Ngài, nhưng họ đã quá kiêu căng tự phụ và không vâng theo các điều răn Ngài. Họ cứ phạm tội và chống lại luật lệ Ngài, luật lệ mà ai vâng theo sẽ sống. Họ đã đưa ra đôi vai ương ngạnh, làm cho cổ họ ra cứng, và không chịu nghe lời Ngài. 30.  Dù vậy, Ngài đã nhẫn nại cưu mang họ suốt bao nhiêu năm dài. Ngài đã dùng Ðức Thánh Linh của Ngài để cảnh cáo họ về tội lỗi của họ qua các vị tiên tri của Ngài. Thế nhưng, họ vẫn một mực không chịu vâng lời. Do đó, Ngài đã phó họ cho các dân ngoại vốn cư ngụ trong xứ. 31.  Tuy nhiên, do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không tuyệt diệt họ hay bỏ rơi họ, vì Ngài là Ðức Chúa Trời khoan dung độ lượng và giàu lòng thương xót. <br/>32.  Vậy, bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của chúng con, Ðức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng sợ, Ðấng luôn giữ giao ước yêu thương vô tận của Ngài, xin đừng xem tất cả những khó khăn chúng con đang gánh chịu như một việc nhỏ trước mặt Ngài. Hoạn nạn lớn đã giáng trên chúng con, trên các vua, các quan, các tư tế, các tiên tri, các tổ tiên, và tất cả dân của chúng con từ ngày các vua A-sy-ri đánh bại chúng con đến ngày nay. 33.  Ngài luôn luôn công chính mỗi khi chúng con bị đoán phạt, vì Ngài đã đối xử với chúng con cách thành tín, còn chúng con thì cứ hành động cách gian tà đối với Ngài. 34.  Không có vua nào hay quan nào của chúng con, không có tư tế nào hay tổ tiên nào của chúng con đã vâng giữ luật pháp Ngài, hoặc làm theo các điều răn Ngài, hoặc quan tâm đến những lời cảnh cáo của Ngài đối với họ. 35.  Ngược lại, khi còn nắm giữ quyền hành trong vương quốc của họ, họ đã không thờ phượng Ngài. Họ đã hưởng biết bao phước hạnh lớn lao trong đất nước phì nhiêu và rộng lớn Ngài đã ban cho họ, nhưng họ không thờ phượng Ngài và cũng không lìa bỏ những việc làm xấu xa gian tà của họ. 36.  Cho nên, giờ đây chúng con phải trở thành những kẻ nô lệ; chúng con làm nô lệ ngay trên đất nước Ngài đã ban cho tổ tiên của chúng con để họ và con cháu của họ có thể hưởng những hoa quả dẫy đầy và của cải nhiều vô kể. Xin Ngài xem, chúng con đang làm những kẻ nô lệ! 37.  Vì cớ những tội lỗi của chúng con, các hoa lợi làm ra trên đất nước nầy đều phải đem nộp cho các vua ngoại bang mà Ngài đã lập lên cai trị chúng con. Họ có quyền trên thân thể chúng con; còn súc vật của chúng con họ muốn lấy lúc nào thì lấy. Chúng con thật đang ở giữa một cơn hoạn nạn lớn.” <br/>'''Danh Sách Những Người Ký Giao Ước'''<br/>38.  Vì tất cả những lẽ đó, chúng tôi đồng lòng với nhau lập một giao ước nghiêm túc và ghi rõ xuống trên giấy trắng mực đen. Trong văn kiện được đóng ấn ấy có tên những người lãnh đạo, những người Lê-vi, và các vị tư tế. <br/>

Phiên bản lúc 07:12, ngày 12 tháng 3 năm 2015

Bản Dịch 1926

1. Ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại, cữ ăn, mặc bao và phủ bụi đất. 2. Dòng Y-sơ-ra-ên chia rẽ các người ngoại, đứng dậy xưng tội lỗi mình và sự gian ác của tổ phụ mình. 3. Chúng đứng dậy tại chỗ mình, đọc trong sách luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, lâu đến phần tư ngày: trong một phần tư khác, chúng xưng tội và thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. 4. Bấy giờ, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Kê-na-ni, đứng dậy tại trên sạp người Lê-vi, và kêu cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.

5. Khi ấy những người Lê-vi, là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Phê-ta-hia nói rằng: Hãy đứng dậy, ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là Đấng hằng có đời đời kiếp kiếp! Đáng ngợi khen danh vinh hiển của Ngài, vẫn trổi cao hơn các sự chúc tụng và các lời khen ngợi. 6. Ôi! chỉ một mình Chúa là Đức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa. 7. Chúa ôi! Chúa là Giê-hô-va Đức Chúa Trời mà đã chọn Áp-ram, đem người ra khỏi U-rơ của dân Canh-đê, và ban cho người tên Áp-ra-ham. 8. Chúa thấy lòng người trung thành tại trước mặt Chúa, và Chúa lập giao ước với người, đặng ban cho dòng dõi người xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-rê-ga-sít; Chúa có làm ứng nghiệm lời của Chúa, vì Chúa là công bình.

9. Chúa có thấy sự khốn khổ của tổ phụ chúng tôi tại Ê-díp-tô, có nghe tiếng kêu la của chúng tại bên Biển đỏ, 10. làm những dấu kỳ phép lạ nơi Pha-ra-ôn, nơi đầy tớ người và nơi toàn dân sự của nước người; vì Chúa biết rằng họ có đối đãi tổ phụ chúng tôi cách kiêu căng, và Chúa có làm nổi danh Chúa như thể ngày nay. 11. Chúa có phân rẽ biển trước mặt chúng nó, để chúng nó đi ngang qua giữa biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo, Chúa bèn ném họ dưới vực sâu, như ném đá trong nước lớn. 12. Ban ngày, Chúa dẫn dắt chúng bằng một trụ mây, và ban đêm bằng một trụ lửa, để chiếu sáng cho chúng trong con đường phải đi theo. 13. Chúa cũng giáng lâm tại trên núi Si-na-i, phán với chúng từ trên trời, ban cho chúng những luật lệ ngay thẳng, pháp độ chân thật, và những qui tắc cùng điều răn tốt lành. 14. Chúa khiến cho chúng biết ngày sa-bát thánh của Chúa, cậy Môi-se, tôi tớ của Chúa, truyền cho chúng những điều răn, qui tắc, và luật pháp. 15. Từ các từng trời, Chúa ban cho chúng bánh đặng ăn đói, khiến hòn đá chảy ra nước cho chúng uống khát, phán biểu chúng vào nhận lấy xứ mà Chúa đã thề ban cho chúng.

16. Nhưng tổ phụ chúng tôi cư xử cách kiêu hãnh cứng cổ mình, không nghe các điều răn của Chúa, 17. chẳng khứng vâng theo và không nhớ đến các phép lạ mà Chúa đã làm giữa chúng; nhưng chúng cứng cổ mình, và trong sự bội nghịch mình cắt một kẻ làm đầu đặng trở về nơi nô lệ của họ. Nhưng Chúa vốn một Đức Chúa Trời sẵn tha thứ, hay làm ơn, và thương xót, chậm nóng giận, và dư đầy nhân từ, Chúa không có lìa bỏ chúng. 18. Dẫu khi chúng làm một con bò con đực, mà rằng: Nầy là thần đã dẫn các ngươi lên khỏi Ê-díp-tô, và chọc cho Chúa giận nhiều, 19. thì Chúa vì sự thương xót của Chúa, không lìa bỏ chúng trong đồng vắng; trụ mây dẫn đường ban ngày, không lìa khỏi trên chúng, hoặc trụ lửa lúc ban đêm chiếu sáng và chỉ cho chúng con đường chúng phải đi. 20. Chúa cũng ban cho chúng Thần linh lương thiện của Chúa, để dạy dỗ cho chúng, không từ chối cho miệng chúng ăn ma-na, và ban cho chúng nước đặng uống khát. 21. Phải, Chúa nuôi dưỡng chúng bốn mươi năm trong đồng vắng: chúng chẳng thiếu thốn chi cả; quần áo chúng không cũ rách, và chân chúng chẳng phù lên.

22. Vả lại, Chúa ban cho chúng những nước và dân tộc, và phân phát nước ấy cho chúng; chúng nhận được nước của Si-hôn, tức nước của vua Hết-bôn, và nước của Óc, vua Ba-san. 23. Chúa cũng thêm nhiều con cháu chúng đông như sao trên trời, đưa chúng vào xứ mà Chúa đã phán cùng tổ phụ chúng rằng chúng sẽ vào đó đặng nhận lấy xứ ấy. 24. Vậy, con cháu chúng bèn vào và nhận lấy xứ, và Chúa bắt phục trước mặt họ các dân của xứ, là dân Ca-na-an, phó dân ấy và những vua chúng nó cùng các dân tộc của xứ vào tay họ, đặng họ đãi các dân ấy theo ý mình muốn. 25. Họ chiếm lấy những thành bền vững, và ruộng đất mầu mỡ, được những nhà đầy các vật tốt lành, nhưng giếng đào, vườn nho, vườn ô-li-ve, và cây trái rất nhiều; chúng ăn, bèn được no nê, và mập béo, vui lòng trong sự nhân từ lớn lao của Chúa.

26. Dầu vậy, chúng chẳng vâng theo, bèn phản nghịch với Chúa, ném bỏ luật pháp Chúa sau lưng, giết các đấng tiên tri của Chúa, là người làm chứng nghịch cùng họ đặng đem họ trở lại cùng Chúa; song chúng lại chọc giận Chúa nhiều thay. 27. Vì vậy, Chúa phó họ vào tay cừu địch của họ; chúng nó hà hiếp họ. Trong thời hoạn nạn chúng kêu cầu cùng Chúa, thì từ các từng trời Chúa có nghe đến; theo lòng nhân từ lớn lao của Chúa, Chúa bèn ban cho những đấng giải cứu để cứu chúng khỏi tay kẻ cừu địch mình. 28. Nhưng khi chúng được an tịnh, bèn khởi làm lại điều ác trước mặt Chúa; vì vậy, Chúa bỏ chúng vào tay kẻ thù nghịch để quản hạt chúng; song khi chúng trở lại, kêu cầu cùng Chúa, thì Chúa từ trên trời nghe đến, và vì lòng thương xót Chúa, nên giải cứu chúng nhiều lần. 29. Chúa cũng làm chứng nghịch cùng chúng, để dẫn dắt chúng trở lại luật pháp của Ngài. Dầu vậy, chúng cư xử cách kiêu ngạo không nghe các điều răn Chúa, phạm đến luật lệ của Chúa, là luật lệ nếu người nào vâng làm theo, tất sẽ được sống; chúng ở chấp nhất, cứng cổ mình, và không khứng nghe theo. 30. Chúa dung thứ chúng nhiều năm và cậy Thần linh và các tiên tri của Chúa mà làm chứng nghịch cùng chúng; nhưng chúng không lắng tai nghe, nên Chúa phó chúng vào tay dân tộc của các xứ. 31. Song, vì lòng thương xót lớn lao của Chúa, Chúa không có tận diệt chúng, cũng không lìa bỏ chúng; vì Chúa vốn là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ.

32. Vậy bây giờ, hỡi Đức Chúa Trời của chúng tôi ơi! là Đức Chúa Trời rất lớn rất quyền năng và đáng sợ, hằng giữ giao ước và sự nhân từ, xin chớ coi nhỏ mọn trước mặt Chúa các việc đau đớn cực nhọc đã giáng trên chúng tôi, trên các vua và các quan trưởng, trên những thầy tế lễ và các tiên tri, trên tổ phụ chúng tôi, và trên hết thảy dân sự của Chúa, từ đời các vua A-si-ri cho đến ngày nay. 33. Trong mọi việc đã xảy đến cho chúng tôi, Chúa vẫn là công bình; vì Chúa thi hành cách chân thật, còn chúng tôi lại làm cách hung ác. 34. Các vua chúng tôi, các quan trưởng, những thầy tế lễ, và tổ phụ chúng tôi, không có gìn giữ luật pháp của Chúa, cũng chẳng nghe theo các điều răn và chứng cớ mà Chúa phán dạy nghịch cùng chúng. 35. Tại trong xứ của chúng, giữa điều ơn lành dư dật mà Chúa đã ban cho chúng, tại trong đất rộng rãi và màu mỡ mà Chúa đã đặt trước mặt chúng, chúng không phục sự Chúa, chẳng trở bỏ các công việc ác của họ. 36. Kìa, ngày nay chúng tôi làm tôi mọi; này chúng tôi làm tôi trong xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi để ăn bông trái và thổ sản tốt tươi của nó. 37. Xứ sanh ra nhiều thổ sản cho các vua mà Chúa đã lập trên chúng tôi tại cớ tội lỗi của chúng tôi: các vua ấy cũng tự ý mình lấn lướt trên thân thể chúng tôi và các súc vật của chúng tôi, và chúng tôi đang bị hoạn nạn lớn. 38. Dầu các sự này, chúng tôi lập giao ước chắc chắn, và chúng tôi ghi chép nó các quan trưởng, người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng tôi đóng ấn cho.

Bản Dịch 2011

Lễ Thờ Phượng Sám Hối
1. Vào ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân I-sơ-ra-ên họp lại với nhau để kiêng ăn, mặc vải thô, và rắc bụi đất trên đầu. 2. Dân I-sơ-ra-ên tự tách biệt họ ra khỏi mọi người thuộc các chủng tộc khác. Họ đứng dậy xưng tội của họ và tội của tổ tiên họ. 3. Họ đứng tại chỗ của họ và đọc Luật Pháp của Ðức Chúa Trời của họ trong nửa buổi, còn nửa buổi kia họ xưng tội và thờ phượng CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ.
4. Bấy giờ Ba-ni, Giê-sua, Cát-mi-ên, Sê-ba-ni-a, Bun-ni, Sê-rê-bi-a, Ba-ni, và Kê-na-ni đứng trên các bục dành cho người Lê-vi và lớn tiếng kêu cầu với CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ. 5. Kế đó, những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bi-a, và Pê-tha-hi-a nói, “Hãy đứng dậy và ca ngợi CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, Ðấng hiện hữu từ vô cùng trong quá khứ cho đến vô cùng trong tương lai.” Họ nói tiếp, “Chúc tụng danh vinh hiển của Ngài. Nguyện danh Ngài trỗi cao trên mọi lời chúc tụng và tôn vinh.”
6. Bấy giờ Ê-xơ-ra nói, “Ôi, chỉ một mình Ngài là CHÚA, Ðấng có một không hai. Chính Ngài đã dựng nên các từng trời và trời của các từng trời, cùng toàn thể thiên binh; Ngài đã dựng nên trái đất và mọi vật trên đất, biển và mọi vật trong biển. Chính Ngài ban sự sống cho muôn loài vạn vật. Toàn thể thiên binh thiên sứ đều sấp mình xuống thờ phượng Ngài. 7. Ngài là CHÚA, Ðức Chúa Trời, Ðấng đã chọn Áp-ram và đem ông ra khỏi U-rơ của người Canh-đê, và ban cho ông tên Áp-ra-ham. 8. Ngài đã thấy lòng ông trung thành với Ngài, nên đã lập với ông một giao ước, ban cho dòng dõi ông đất của dân Ca-na-an, dân Hi-ti, dân A-mô-ri, dân Pê-ri-xi, dân Giê-bu-si, và dân Ghi-ga-si. Ngài đã giữ những lời hứa của Ngài, vì Ngài là Ðấng công chính. 9. Ngài đã nhìn thấy cảnh khốn cùng của tổ tiên chúng con ở Ai-cập; Ngài đã nghe tiếng khóc than của họ bên bờ Hồng Hải. 10. Ngài đã sai các phép lạ và các dấu kỳ của Ngài đến đối phó với Pha-ra-ôn, với bầy tôi của vua ấy, và với toàn dân trong xứ đó, vì Ngài biết rõ dân Ai-cập đã đối xử với họ cách hống hách như thế nào. Ngài đã làm cho danh Ngài được lừng lẫy cho đến ngày nay. 11. Ngài đã rẽ biển ra trước mặt họ, để họ có thể đi qua giữa lòng biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo họ, Ngài quăng chúng vào vực thẳm như một cục đá bị ném vào dòng nước mạnh. 12. Ngoài ra, Ngài đã dẫn đưa họ ban ngày bằng một trụ mây và ban đêm bằng một trụ lửa để soi sáng cho họ trên con đường họ phải đi qua. 13. Ngài cũng đã ngự xuống trên Núi Si-nai; từ trời Ngài đã phán dạy họ. Ngài đã ban cho họ các mạng lịnh chính trực, các luật pháp chân chính, cùng các luật lệ và các điều răn toàn hảo. 14. Ngài đã tỏ cho họ biết ngày Sa-bát thánh của Ngài, và đã ban cho họ các điều răn, luật lệ, và luật pháp của Ngài qua Mô-sê tôi tớ Ngài. 15. Ðể họ khỏi đói Ngài đã ban bánh từ trời xuống cho họ ăn; để họ khỏi khát Ngài đã khiến nước ngọt từ vầng đá tuôn ra cho họ uống. Ngài đã bảo họ đi vào chiếm lấy xứ mà Ngài đã thề sẽ ban cho họ. 16. Nhưng họ, tổ tiên của chúng con, đã ngang ngược và cứng cổ; họ đã không vâng theo các điều răn của Ngài. 17. Họ đã không vâng lời và cũng không nhớ gì đến các phép lạ Ngài đã làm ở giữa họ, nhưng đã cứng cổ, và trong cơn phản loạn họ đã lập một kẻ lãnh đạo để dẫn họ trở về làm nô lệ. Nhưng Ngài là Ðức Chúa Trời sẵn lòng tha thứ, khoan dung độ lượng, thương xót, chậm giận, và đầy dẫy tình thương. Ngài đã không bỏ họ, 18. ngay cả khi họ đúc cho họ một pho tượng của một con bê và nói, ‘Ðây là thần của ngươi, đấng đã dẫn ngươi ra khỏi Ai-cập,’ và như thế họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề. 19. Dù vậy, do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không bỏ họ bơ vơ trong đồng hoang. Ban ngày trụ mây dẫn đường họ vẫn không lìa khỏi họ; ban đêm trụ lửa soi sáng họ trên con đường họ phải đi vẫn không lìa khỏi họ. 20. Ngài đã ban Thần Linh thiện hảo của Ngài để dạy dỗ họ. Ngài đã không giữ bánh man-na khỏi miệng họ; Ngài đã ban cho họ nước ngọt để họ không bị khát. 21. Thật vậy, trong bốn mươi năm Ngài đã bảo tồn mạng sống của họ trong đồng hoang. Họ đã chẳng thiếu thốn gì. Quần áo của họ không mòn rách, đôi chân của họ không phù lên. 22. Hơn thế nữa, Ngài đã ban các vương quốc và các nước cho họ. Họ đã chia các nước ấy cho nhau và không chừa lại một miền nào. Họ đã chiếm lấy xứ sở của Si-hôn vua của Hếch-bôn và xứ sở của Óc vua của Ba-san. 23. Ngài đã làm cho dòng dõi họ đông như sao trên trời, và Ngài đã đem họ vào trong xứ mà Ngài đã bảo tổ tiên họ hãy vào và chiếm lấy. 24. Vậy con cháu họ đã vào và chiếm lấy xứ. Ngài đã bắt các dân đang ở trong xứ phải khuất phục trước mặt họ, đó là các dân Ca-na-an. Ngài đã trao vào tay họ các vua và các dân trong xứ, để họ muốn làm gì với chúng tùy ý. 25. Họ đã chiếm lấy những thành trì kiên cố và những vùng đất màu mỡ. Họ đã chiếm lấy những ngôi nhà chứa đầy mọi thứ tốt đẹp, những giếng nước đã đào sẵn, những vườn nho, những rẫy ô-liu, và những cây ăn trái nhiều vô kể. Vậy họ đã ăn, được no nê, và trở nên mập béo. Họ đã khoan khoái hưởng thụ mọi phước hạnh lớn lao mà Ngài ban cho. 26. Nhưng họ đã không vâng lời và đã nổi loạn chống lại Ngài. Họ đã vứt bỏ luật pháp của Ngài ra sau lưng họ. Họ đã giết các tiên tri của Ngài, những người đã khuyên bảo họ hãy trở về với Ngài. Họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề. 27. Vì thế Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng tha hồ áp bức họ. Tuy nhiên giữa cảnh gian lao khốn khổ họ đã kêu cầu với Ngài. Từ trời cao Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã ban cho họ những nhà giải phóng, để giải thoát họ ra khỏi tay của quân thù. 28. Nhưng vừa khi họ được nghỉ ngơi, họ lại làm những việc ác nữa trước mặt Ngài. Do đó Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng cai trị họ. Bấy giờ họ mới chịu quay về và kêu cầu với Ngài nữa. Từ trời Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Ngài đã giải cứu họ nhiều lần vì lòng thương xót của Ngài. 29. Ngài đã cảnh cáo họ phải trở lại và vâng giữ luật pháp Ngài, nhưng họ đã quá kiêu căng tự phụ và không vâng theo các điều răn Ngài. Họ cứ phạm tội và chống lại luật lệ Ngài, luật lệ mà ai vâng theo sẽ sống. Họ đã đưa ra đôi vai ương ngạnh, làm cho cổ họ ra cứng, và không chịu nghe lời Ngài. 30. Dù vậy, Ngài đã nhẫn nại cưu mang họ suốt bao nhiêu năm dài. Ngài đã dùng Ðức Thánh Linh của Ngài để cảnh cáo họ về tội lỗi của họ qua các vị tiên tri của Ngài. Thế nhưng, họ vẫn một mực không chịu vâng lời. Do đó, Ngài đã phó họ cho các dân ngoại vốn cư ngụ trong xứ. 31. Tuy nhiên, do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không tuyệt diệt họ hay bỏ rơi họ, vì Ngài là Ðức Chúa Trời khoan dung độ lượng và giàu lòng thương xót.
32. Vậy, bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của chúng con, Ðức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng sợ, Ðấng luôn giữ giao ước yêu thương vô tận của Ngài, xin đừng xem tất cả những khó khăn chúng con đang gánh chịu như một việc nhỏ trước mặt Ngài. Hoạn nạn lớn đã giáng trên chúng con, trên các vua, các quan, các tư tế, các tiên tri, các tổ tiên, và tất cả dân của chúng con từ ngày các vua A-sy-ri đánh bại chúng con đến ngày nay. 33. Ngài luôn luôn công chính mỗi khi chúng con bị đoán phạt, vì Ngài đã đối xử với chúng con cách thành tín, còn chúng con thì cứ hành động cách gian tà đối với Ngài. 34. Không có vua nào hay quan nào của chúng con, không có tư tế nào hay tổ tiên nào của chúng con đã vâng giữ luật pháp Ngài, hoặc làm theo các điều răn Ngài, hoặc quan tâm đến những lời cảnh cáo của Ngài đối với họ. 35. Ngược lại, khi còn nắm giữ quyền hành trong vương quốc của họ, họ đã không thờ phượng Ngài. Họ đã hưởng biết bao phước hạnh lớn lao trong đất nước phì nhiêu và rộng lớn Ngài đã ban cho họ, nhưng họ không thờ phượng Ngài và cũng không lìa bỏ những việc làm xấu xa gian tà của họ. 36. Cho nên, giờ đây chúng con phải trở thành những kẻ nô lệ; chúng con làm nô lệ ngay trên đất nước Ngài đã ban cho tổ tiên của chúng con để họ và con cháu của họ có thể hưởng những hoa quả dẫy đầy và của cải nhiều vô kể. Xin Ngài xem, chúng con đang làm những kẻ nô lệ! 37. Vì cớ những tội lỗi của chúng con, các hoa lợi làm ra trên đất nước nầy đều phải đem nộp cho các vua ngoại bang mà Ngài đã lập lên cai trị chúng con. Họ có quyền trên thân thể chúng con; còn súc vật của chúng con họ muốn lấy lúc nào thì lấy. Chúng con thật đang ở giữa một cơn hoạn nạn lớn.”
Danh Sách Những Người Ký Giao Ước
38. Vì tất cả những lẽ đó, chúng tôi đồng lòng với nhau lập một giao ước nghiêm túc và ghi rõ xuống trên giấy trắng mực đen. Trong văn kiện được đóng ấn ấy có tên những người lãnh đạo, những người Lê-vi, và các vị tư tế.

Tài Liệu