Khác biệt giữa các bản “II Các Vua: Chương 21”

Từ Thư Viện Tin Lành
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm
Dòng 1: Dòng 1:
 
==Bản Dịch 1926==
 
==Bản Dịch 1926==
 
+
1. Ma-na-se được mười hai tuổi khi người lên làm vua; người cai trị năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Hép-si-ba. 2. Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và theo sự thờ phượng gớm ghiếc của các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y--ra-ên. 3. Người sửa xây lại các nơi cao mà Ê--chia, cha người phá hủy, lập bàn thờ cho Ba-anh, dựng hình tượng A--ra giống như của A-háp, vua Y--ra-ên, đã làm, cúng thờ toàn cơ binh trên trời hầu việc nó. 4. Người cũng lập bàn thờ trong đền của Đức Giê--va, mà Đức Giê-hô-va có phán về đền thờ rằng: Ấy tại nơi Giê-ru-sa-lem ta để danh ta ngự. 5. Người xây những bàn thờ cho toàn cơ binh trên trời, tại nơi hai hành lang về đền thờ của Đức Giê-hô-va. 6.  Người đưa con trai mình qua lửa, tập tành phép thiên văn và việc bói điềm; lập lên những đồng cốt thầy bói. Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va quá chừng, chọc giận Ngài hoài. 7. Còn hình tượng A--ra mà người đã làm, thì người dựng trong đền thờ mà Đức Giê-hô-va có phán với Đa-vít và Sa-lô-môn, con trai người, rằng: Ấy trong đền này và trong Giê-ru-sa-lem, thành ta đã chọn trong các chi phái Y-sơ-ra-ên, mà ta sẽ đặt danh ta ngự đời đời. 8. Nếu Y--ra-ên lo gìn giữ mọi điều ta đã phán dạy, mọi luật pháp Môi-se, tôi tớ ta, đã truyền cho chúng nó, thì ta sẽ chẳng để dân Y--ra-ên đi xiêu lạc ngoài xứ mà ta đã ban cho tổ phụ chúng nó. 9.  Nhưng chúng nó không nghe; chúng nó bị Ma-na-se quyến dụ làm gian ác hơn các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã tuyệt diệt khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. 10.  Đức Giê-hô-va bèn cậy các tiên tri, tôi tớ Ngài, mà phán rằng: 11. Vì Ma-na-se, vua Giu-đa, đã phạm những sự gớm ghiếc ấy, và có làm ác hơn mọi điều dân A-mô-rít đã làm trước người, cùng quyến dụ Giu-đa phạm tội với hình tượng nó, 12.  vì cớ đó, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Kìa, ta sẽ giáng trên Giê-ru-sa-lem và trên Giu-đa những tai họa cả thể, đến đỗi phàm ai nghe nói đến phải lùng bùng lỗ tai. 13. Ta sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem dây đo Sa-ma-ri và cân nhà của A-háp. Ta sẽ xóa sạch Giê-ru-sa-lem như người ta chùi rửa cái dĩa, rồi úp nó xuống sau khi rửa xong. 14. Ta sẽ từ bỏ phần còn sót lại về sản nghiệp ta, phó chúng nó vào tay thù nghịch chúng nó; chúng nó sẽ trở thành hóa tài miếng mồi của họ; 15.  vì chúng làm những điều ác trước mặt ta, chọc giận ta, từ ngày tổ phụ chúng ra khỏi Ê-díp-tô cho đến ngày nay. 16. Ma-na-se cũng đổ nhiều huyết vô tội ra, đến đỗi Giê-ru-sa-lem bị ngập từ đầu này đến đầu kia. Lại phụ thêm những tội lỗi người phạm gây cho Giu-đa phạm tội nữa, và làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. 17. Các chuyện khác của Ma-na-se, những công việc người, và tội người đã phạm, đều chép trong sử ký về các vua Giu-đa. 18. Ma-na-se an giấc với tổ phụ người, được chôn trong vườn của đền người, tức trong vườn U-xa, A-môn, con trai người, cai trị thế cho người. 19. Khi A-môn lên làm vua, tuổi được hai mươi hai; người cai trị hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Mê-su-lê-mết, con gái của Ha-rút, cháu của Giô-ba. 20. Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, y như Ma-na-se, cha người, đã làm. 21.  Người đi theo y một đường của cha người, hầu việc hình tượng mà cha người đã hầu việc, và quì lạy trước mặt chúng nó. 22. Người lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, không đi theo con đường của Đức Giê-hô-va. 23.  Vả, những tôi tớ của A-môn mưu phản người, và giết người tại trong đền vua. 24. Nhưng dân của xứ giết hết thảy những kẻ phản nghịch vua A-môn, và tôn Giô-si-a, con trai người, lên làm vua thế cho người. 25. Các chuyện khác của A-môn, công việc người làm, đều chép trong sử ký về các vua Giu-đa. 26. Người được chôn trong mồ mả người nơi vườn U-xa; rồi Giô-si-a, con trai người, kế vị người. <br/>
1. Hay được tin ấy, vua Ê-xê-chia xé rách quần áo mình, mặc áo bao, và đi vào đền thờ của Đức Giê-hô-va.
 
 
 
2. Đoạn, người sai Ê-li-a-kim, quan cai đền, Sép-na, thơ ký, và hững thầy tế lễ già hơn hết, mặc bao, đến Ê-sai, thầy tiên tri, con trai A-mốt.
 
 
 
3. Chúng nói với người rằng: Ê--chia nói như vầy: Ngày nay là một ngày tai nạn, sửa phạt, và ô danh; vì đàn bà đã đến kỳ mãn nguyệt, nhưng thiếu sức đẻ con.
 
 
 
4. Có lẽ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông đã nghe các lời của Ráp-sa-kê, vua A-si-ri, chủ hắn, đã sai đến đặng phỉ báng Đức Chúa Trời hằng sống, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông sẽ quở phạt các lời Ngài đã nghe. Vậy, xin hãy cầu nguyện giùm cho những kẻ còn sống.
 
 
 
5. Các tôi tớ vua Ê--chia đi đến Ê-sai.
 
 
 
6. Người nói với chúng rằng: Các ngươi khá đáp với chủ mình thế này: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ sợ hãi những lời các ngươi đã nghe các tôi tớ của vua A-si-ri dùng mà phạm đến ta.
 
 
 
7. Ta sẽ khiến một thần đến cùng nó, làm cho nó nghe tiếng đồn, và nó sẽ trở về xứ mình; tại đó ta sẽ dùng gươm giết nó.
 
 
 
8. Khi Ráp-sa-kê trở về vua A-si-ri, thấy vua đang vây Líp-na, vì có hay rằng chủ mình đã lìa khỏi La-ki.
 
 
 
9. Vua bèn nghe nói về Tiệt-ha-ca, vua Ê-thi-ô-bi rằng: Kìa, người đã kéo ra đặng giao chiến với ông. Bởi cớ đó, San-chê-ríp lại sai sứ giả đến Ê-xê-chia, và dặn rằng:
 
 
 
10. Các ngươi hãy nói như vầy với Ê--chia, vua Giu-đa, mà rằng: Chớ để cho Đức Chúa Trời, là Đấng ngươi nhờ cậy, phỉnh gạt ngươi, mà nói rằng: Giê-ru-sa-lem sẽ chẳng bị sa vào tay vua A-si-ri.
 
 
 
11. Kìa, người đã hay những việc các vua A-si-ri đã làm cho các xứ mà diệt đi hết thảy: còn ngươi, sẽ thoát khỏi nào!
 
 
 
12. Các thần của những dân tộc mà tổ phụ ta đã tuyệt diệt, há có giải cứu chúng chăng, là các thần của Gô-xa, Ha-ran, Rết-sép, và dân Ê-đen, ở tại Tê-la-sa?
 
 
 
13. Vua Ha-mát, vua Ạt-bát, vua thành Sê-phạt-va-im, vua Hê-na, và vua Y-va, đều ở đâu?
 
 
 
14. Ê-xê-chia tiếp đặng thơ ở nơi tay các sứ giả, bèn đọc. Đoạn, người đi lên đền thờ của Đức Giê-hô-va, và mở thơ ra trước mặt Đức Giê-hô-va.
 
 
 
15. Ê--chia cầu nguyện Đức Giê-hô-va rằng: Ôi, Giê--va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Ngài vẫn ngự ở giữa các chê-ru-bin, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời của các nước thế gian. Chính Ngài đã làm nên trời và đất.
 
 
 
16. Hỡi Đức Giê--va! hãy nghiêng tai Ngài và nghe. Hỡi Đức Giê-hô-va! hãy mở mắt Ngài ra và xem. Cầu Chúa hãy nghe các lời San-chê-ríp sai nói, đặng phỉ báng Đức Chúa Trời hằng sống.
 
 
 
17. Đức Giê--va ôi! quả thật các vua A-si-ri đã diệt các dân tộc, và phá hoang địa phận chúng nó,
 
 
 
18. ném các thần chúng nó vào lửa; nhưng chẳng phải là thần, chẳng qua là công việc của tay người ta làm ra bằng gỗ và bằng đá; nên chúng hủy diệt các thần ấy.
 
 
 
19. Vậy bây giờ, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi ôi! hãy giải cứu chúng tôi khỏi tay San-chê-ríp, hầu cho muôn nước trên đất biết rằng chỉ một mình Giê-hô-va là Đức Chúa Trời.
 
 
 
20. Ê-sai, con trai A-mốt, sai nói với Ê-xê-chia rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta có nghe lời ngươi cầu nguyện cùng ta về việc San-chê-ríp, vua A-si-ri.
 
 
 
21. Này là lời Đức Giê--va đã phán về hắn. Gái đồng trinh Si-ôn khinh dể, chê cười ngươi; con gái Giê-ru-sa-lem đã lắc đầu theo ngươi.
 
 
 
22. Ngươi phỉ báng và sỉ nhục ai? Cất tiếng lên cùng ai? Thật ngươi đã trừng con mắt nghịch với Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên!
 
 
 
23. Ngươi đã nhờ các sứ giả mình nhạo báng Chúa, mà rằng: Ta đem nhiều xe, lên chót núi, đến đỉnh rất xa của Li-ban; ta sẽ đốn những cay bá hương cao hơn hết, cây tòng tốt nhất của nó; ta sẽ đến cõi xa hơn hết, tức rừng rậm của .
 
 
 
24. Ta đã đào giếng, uống nước của đất lạ; dưới bàn chân ta sẽ làm cạn sông Ê-díp-tô.
 
 
 
25. Sự này ta đã làm từ lâu, việc này ta đã định từ thời cổ, ngươi há chẳng nghe đến sao? Bây giờ, ta khiến cho sự đó xảy đến, để cho ngươi phá hoang các thành kiên cố ra đống hư nát.
 
 
 
26. Vì vậy, dân sự của các thành ấy đều yếu đuối, bị sợ hãi hổ thẹn; chúng giống như cây cỏ xanh ngoài đồng, tỉ như cây cỏ trên nóc nhà, khác nào lúa mì đã héo trước khi cọng chưa thành.
 
 
 
27. Nơi ngươi ngồi, lúc ngươi đi ra, đi vào, và sự giận dại ngươi đối cùng ta, ta đã biết hết.
 
 
 
28. Bởi ngươi giận dại cùng ta, và vì lời kiêu ngạo ngươi đã thấu đến tai ta, ắt ta sẽ xỏ cái vòng nơi mũi ngươi, để khớp nơi môi miếng ngươi. Đoạn, ta sẽ khiến ngươi trở về theo con đường mà ngươi đã đi đến.
 
 
 
29. Hỡi Ê--chia, nhờ dấu hiệu này ngươi nhìn biết rằng lời này sẽ ứng nghiệm: Năm nay, các ngươi sẽ ăn vật hột giống rớt xuống, sanh ra; năm thứ nhì, ăn vật tự mọc lên; nhưng năm thứ ba, các ngươi sẽ gieo và gặt, trồng nho và ăn trái nó.
 
 
 
30. Hễ giống gì thoát khỏi, còn lại của dân tộc Giu-đa, dưới sẽ châm rễ xuống, trên sẽ kết bông trái lên.
 
 
 
31. Vì sẽ có phần sót lại từ Giê-ru-sa-lem mà ra, kẻ thoát khỏi từ núi Si-ôn mà đến; lòng sốt sắng của Đức Giê-hô-va sẽ làm nên việc ấy.
 
 
 
32. Bởi cớ đó, Đức Giê-hô-va phán về vua A-si-ri như vầy: Nó sẽ không vào thành này, chẳng xạ tên trong nó, cũng chẳng kéo đến giơ khiên lên trước mặt nó, và chẳng đắp lũy nghịch nó.
 
 
 
33. Đức Giê-hô-va phán: Nó sẽ trở về theo con đường nó đã đi đến, không vào trong thành này.
 
 
 
34. Vì tại cớ ta và Đa-vít, kẻ tôi tớ ta, ta sẽ binh vực thành này đặng cứu nó.
 
 
 
35. Trong đêm đó, có một thiên sứ của Đức Giê-hô-va đi đến trong dinh A-si-ri, và giết một trăm tám mươi lăm ngàn người tại đó. Sáng ngày mai, người ta thức dậy, bèn thấy quân ấy, kìa, chỉ là thây đó thôi.
 
 
 
36. San-chê-ríp, vua A-si-ri, bèn trở về, ở tại Ni-ni-ve.
 
 
 
37. Một ngày kia, người thờ lạy tại trong chùa Nít-róc, thần của mình, thì A-tra-mê-léc Sa-rết-se giết người bằng gươm, đoạn chúng nó trốn trong xứ A-ra-rát. Ê-sạt-ha-đôn, con trai người, kế vị người.
 
 
 
 
==Bản Dịch 2011==
 
==Bản Dịch 2011==
 
+
'''Ma-na-se Trị Vì Giu-đa'''<br/>'''(2 Sử 33:1-10, 18-20)'''<br/>1.  Ma-na-se được mười hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Hếp-xi-ba. 2.  Ông làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, theo những cách gớm ghiếc của các dân CHÚA đã đuổi đi trước mặt dân I-sơ-ra-ên. 3.  Ông xây lại các tế đàn trên những nơi cao mà Hê-xê-ki-a cha ông đã phá hủy. Ông xây dựng các bàn thờ cho Thần Ba-anh, làm một trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra giống như A-háp vua I-sơ-ra-ên đã làm. Ông thờ tất cả các thần linh trên không trung và cúng tế chúng. 4.  Ông xây các bàn thờ cho các tà thần trong Ðền Thờ CHÚA, nơi CHÚA đã phán, “Ta sẽ đặt danh Ta tại Giê-ru-sa-lem.” 5.  Ông xây bàn thờ cho các thần linh trên không trung ngay trong hai sân của Ðền Thờ CHÚA. 6.  Ông thiêu con trai ông trong lửa để dâng nó cho thần tượng. Ông thực hành phép phù thủy và chiêm tinh. Ông cậy vào các đồng bóng và các thầy bói. Ông làm nhiều điều tội lỗi trước mặt CHÚA và chọc giận Ngài. 7.  Ông tạc tượng Nữ Thần A-sê-ra, rồi đem để nó trong đền thờ là nơi CHÚA đã bảo Ða-vít và Sa-lô-môn con trai vua ấy rằng, “Ta sẽ đặt danh Ta ngự mãi trong đền thờ nầy và trong Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn trong các chi tộc của I-sơ-ra-ên. 8.  Nếu chúng cẩn thận làm theo mọi điều Ta đã truyền cho chúng và vâng theo tất cả luật pháp mà Mô-sê tôi tớ Ta đã truyền cho chúng, Ta sẽ không để cho chân của dân I-sơ-ra-ên phải đi lang thang ra khỏi xứ mà Ta đã ban cho tổ tiên của chúng.” 9.  Nhưng họ không nghe. Ma-na-se đã dẫn dắt họ đi sai lạc, khiến họ phạm nhiều tội lỗi hơn tất cả các nước mà CHÚA đã hủy diệt trước mặt dân I-sơ-ra-ên. <br/>10.  CHÚA đã dùng các tôi tớ Ngài, tức các tiên tri, nói với họ, 11.  “Bởi vì Ma-na-se vua Giu-đa đã làm những việc gớm ghiếc ấy –Ông đã làm những việc gian tà hơn tất cả các dân A-mô-ri đã làm trước ông. Ông đã gây cho Giu-đa phạm tội thờ các thần tượng do ông làm ra– 12.  nên CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế nầy: Ta sẽ giáng những tai họa xuống trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đến nỗi ai nghe đến sẽ lùng bùng lỗ tai. 13.  Ta sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem thước dây đã dùng để đo Sa-ma-ri và sẽ dùng dây dọi đã áp dụng cho nhà A-háp. Ta sẽ chùi sạch Giê-ru-sa-lem như người ta chùi một cái dĩa, chùi sạch nó rồi úp nó xuống. 14.  Ta sẽ vứt bỏ những gì còn lại của cơ nghiệp Ta. Ta sẽ phó chúng vào tay quân thù của chúng. Chúng sẽ trở thành một miếng mồi, một chiến lợi phẩm cho quân thù của chúng. 15.  Bởi vì chúng đã làm những việc tội lỗi trước mặt Ta, chọc giận Ta, từ khi tổ tiên chúng ra khỏi Ai-cập cho đến ngày nay.” <br/>16.  Ngoài ra, Ma-na-se còn làm đổ máu của nhiều người vô tội cho đến khi ông làm ngập Giê-ru-sa-lem với máu vô tội từ đầu nầy đến đầu kia, ngoài những tội ông đã làm để gây cho Giu-đa phạm tội, tức khiến họ làm những điều tội lỗi trước mặt CHÚA. <br/>17.  Những việc khác của Ma-na-se, tất cả những việc ông làm, những tội lỗi ông phạm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 18.  Ma-na-se an giấc với các tổ tiên ông và được chôn trong vườn ngự uyển ở hoàng cung, tức trong Vườn U-xa. A-môn con trai ông lên ngôi kế vị. <br/>'''A-môn Trị Vì Giu-đa'''<br/>'''(2 Sử 33:21-25)'''<br/>19.  A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Mê-su-lê-mết con gái của Ha-ru cháu của Giọt-ba. 20.  Ông làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA như Ma-na-se cha ông đã làm. 21.  Ông đi theo mọi đường lối cha ông đã đi. Ông phục vụ các thần tượng cha ông đã phục vụ, và ông thờ phượng chúng. 22.  Ông lìa bỏ CHÚA, Ðức Chúa Trời của tổ tiên ông và không đi theo các đường lối CHÚA. 23.  Các tôi tớ của A-môn lập mưu làm phản và hạ sát ông ngay trong cung điện. 24.  Nhưng dân trong nước xử tử tất cả những kẻ đã âm mưu và giết Vua A-môn; rồi dân trong nước lập Giô-si-a con trai ông lên ngôi kế vị. <br/>25.  Tất cả những việc khác của A-môn làm há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 26.  Ông được chôn trong mộ của ông trong Vườn U-xa. Sau đó Giô-si-a con trai ông lên ngôi kế vị. <br/>
 
 
 
 
 
==Tài Liệu==
 
==Tài Liệu==
 
+
:* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1926 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
* [[II Các Vua]]
+
:* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1926 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
+
:* [[II Các Vua]]
* Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
+
:* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]]
* Thánh Kinh Lược Khảo - Nhà Xuất Bản Tin Lành Sài Gòn (1970)
 
* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]]
 

Phiên bản lúc 00:32, ngày 8 tháng 12 năm 2014

Bản Dịch 1926

1. Ma-na-se được mười hai tuổi khi người lên làm vua; người cai trị năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Hép-si-ba. 2. Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và theo sự thờ phượng gớm ghiếc của các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. 3. Người sửa xây lại các nơi cao mà Ê-xê-chia, cha người phá hủy, lập bàn thờ cho Ba-anh, dựng hình tượng A-sê-ra giống như của A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, đã làm, cúng thờ toàn cơ binh trên trời và hầu việc nó. 4. Người cũng lập bàn thờ trong đền của Đức Giê-hô-va, mà Đức Giê-hô-va có phán về đền thờ rằng: Ấy tại nơi Giê-ru-sa-lem ta để danh ta ngự. 5. Người xây những bàn thờ cho toàn cơ binh trên trời, tại nơi hai hành lang về đền thờ của Đức Giê-hô-va. 6. Người đưa con trai mình qua lửa, tập tành phép thiên văn và việc bói điềm; lập lên những đồng cốt và thầy bói. Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va quá chừng, chọc giận Ngài hoài. 7. Còn hình tượng A-sê-ra mà người đã làm, thì người dựng trong đền thờ mà Đức Giê-hô-va có phán với Đa-vít và Sa-lô-môn, con trai người, rằng: Ấy trong đền này và trong Giê-ru-sa-lem, thành ta đã chọn trong các chi phái Y-sơ-ra-ên, mà ta sẽ đặt danh ta ngự đời đời. 8. Nếu Y-sơ-ra-ên lo gìn giữ mọi điều ta đã phán dạy, mọi luật pháp mà Môi-se, tôi tớ ta, đã truyền cho chúng nó, thì ta sẽ chẳng để dân Y-sơ-ra-ên đi xiêu lạc ngoài xứ mà ta đã ban cho tổ phụ chúng nó. 9. Nhưng chúng nó không nghe; chúng nó bị Ma-na-se quyến dụ làm gian ác hơn các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã tuyệt diệt khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. 10. Đức Giê-hô-va bèn cậy các tiên tri, là tôi tớ Ngài, mà phán rằng: 11. Vì Ma-na-se, vua Giu-đa, đã phạm những sự gớm ghiếc ấy, và có làm ác hơn mọi điều dân A-mô-rít đã làm trước người, cùng quyến dụ Giu-đa phạm tội với hình tượng nó, 12. vì cớ đó, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Kìa, ta sẽ giáng trên Giê-ru-sa-lem và trên Giu-đa những tai họa cả thể, đến đỗi phàm ai nghe nói đến phải lùng bùng lỗ tai. 13. Ta sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem dây đo Sa-ma-ri và cân nhà của A-háp. Ta sẽ xóa sạch Giê-ru-sa-lem như người ta chùi rửa cái dĩa, rồi úp nó xuống sau khi rửa xong. 14. Ta sẽ từ bỏ phần còn sót lại về sản nghiệp ta, phó chúng nó vào tay thù nghịch chúng nó; chúng nó sẽ trở thành hóa tài và miếng mồi của họ; 15. vì chúng nó làm những điều ác trước mặt ta, chọc giận ta, từ ngày tổ phụ chúng nó ra khỏi Ê-díp-tô cho đến ngày nay. 16. Ma-na-se cũng đổ nhiều huyết vô tội ra, đến đỗi Giê-ru-sa-lem bị ngập từ đầu này đến đầu kia. Lại phụ thêm những tội lỗi người phạm gây cho Giu-đa phạm tội nữa, và làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. 17. Các chuyện khác của Ma-na-se, những công việc người, và tội người đã phạm, đều chép trong sử ký về các vua Giu-đa. 18. Ma-na-se an giấc với tổ phụ người, được chôn trong vườn của đền người, tức trong vườn U-xa, A-môn, con trai người, cai trị thế cho người. 19. Khi A-môn lên làm vua, tuổi được hai mươi hai; người cai trị hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Mê-su-lê-mết, con gái của Ha-rút, cháu của Giô-ba. 20. Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, y như Ma-na-se, cha người, đã làm. 21. Người đi theo y một đường của cha người, hầu việc hình tượng mà cha người đã hầu việc, và quì lạy trước mặt chúng nó. 22. Người lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, không đi theo con đường của Đức Giê-hô-va. 23. Vả, những tôi tớ của A-môn mưu phản người, và giết người tại trong đền vua. 24. Nhưng dân của xứ giết hết thảy những kẻ phản nghịch vua A-môn, và tôn Giô-si-a, con trai người, lên làm vua thế cho người. 25. Các chuyện khác của A-môn, và công việc người làm, đều chép trong sử ký về các vua Giu-đa. 26. Người được chôn trong mồ mả người nơi vườn U-xa; rồi Giô-si-a, con trai người, kế vị người.

Bản Dịch 2011

Ma-na-se Trị Vì Giu-đa
(2 Sử 33:1-10, 18-20)
1. Ma-na-se được mười hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Hếp-xi-ba. 2. Ông làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, theo những cách gớm ghiếc của các dân CHÚA đã đuổi đi trước mặt dân I-sơ-ra-ên. 3. Ông xây lại các tế đàn trên những nơi cao mà Hê-xê-ki-a cha ông đã phá hủy. Ông xây dựng các bàn thờ cho Thần Ba-anh, làm một trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra giống như A-háp vua I-sơ-ra-ên đã làm. Ông thờ tất cả các thần linh trên không trung và cúng tế chúng. 4. Ông xây các bàn thờ cho các tà thần trong Ðền Thờ CHÚA, nơi CHÚA đã phán, “Ta sẽ đặt danh Ta tại Giê-ru-sa-lem.” 5. Ông xây bàn thờ cho các thần linh trên không trung ngay trong hai sân của Ðền Thờ CHÚA. 6. Ông thiêu con trai ông trong lửa để dâng nó cho thần tượng. Ông thực hành phép phù thủy và chiêm tinh. Ông cậy vào các đồng bóng và các thầy bói. Ông làm nhiều điều tội lỗi trước mặt CHÚA và chọc giận Ngài. 7. Ông tạc tượng Nữ Thần A-sê-ra, rồi đem để nó trong đền thờ là nơi CHÚA đã bảo Ða-vít và Sa-lô-môn con trai vua ấy rằng, “Ta sẽ đặt danh Ta ngự mãi trong đền thờ nầy và trong Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn trong các chi tộc của I-sơ-ra-ên. 8. Nếu chúng cẩn thận làm theo mọi điều Ta đã truyền cho chúng và vâng theo tất cả luật pháp mà Mô-sê tôi tớ Ta đã truyền cho chúng, Ta sẽ không để cho chân của dân I-sơ-ra-ên phải đi lang thang ra khỏi xứ mà Ta đã ban cho tổ tiên của chúng.” 9. Nhưng họ không nghe. Ma-na-se đã dẫn dắt họ đi sai lạc, khiến họ phạm nhiều tội lỗi hơn tất cả các nước mà CHÚA đã hủy diệt trước mặt dân I-sơ-ra-ên.
10. CHÚA đã dùng các tôi tớ Ngài, tức các tiên tri, nói với họ, 11. “Bởi vì Ma-na-se vua Giu-đa đã làm những việc gớm ghiếc ấy –Ông đã làm những việc gian tà hơn tất cả các dân A-mô-ri đã làm trước ông. Ông đã gây cho Giu-đa phạm tội thờ các thần tượng do ông làm ra– 12. nên CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế nầy: Ta sẽ giáng những tai họa xuống trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đến nỗi ai nghe đến sẽ lùng bùng lỗ tai. 13. Ta sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem thước dây đã dùng để đo Sa-ma-ri và sẽ dùng dây dọi đã áp dụng cho nhà A-háp. Ta sẽ chùi sạch Giê-ru-sa-lem như người ta chùi một cái dĩa, chùi sạch nó rồi úp nó xuống. 14. Ta sẽ vứt bỏ những gì còn lại của cơ nghiệp Ta. Ta sẽ phó chúng vào tay quân thù của chúng. Chúng sẽ trở thành một miếng mồi, một chiến lợi phẩm cho quân thù của chúng. 15. Bởi vì chúng đã làm những việc tội lỗi trước mặt Ta, chọc giận Ta, từ khi tổ tiên chúng ra khỏi Ai-cập cho đến ngày nay.”
16. Ngoài ra, Ma-na-se còn làm đổ máu của nhiều người vô tội cho đến khi ông làm ngập Giê-ru-sa-lem với máu vô tội từ đầu nầy đến đầu kia, ngoài những tội ông đã làm để gây cho Giu-đa phạm tội, tức khiến họ làm những điều tội lỗi trước mặt CHÚA.
17. Những việc khác của Ma-na-se, tất cả những việc ông làm, những tội lỗi ông phạm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 18. Ma-na-se an giấc với các tổ tiên ông và được chôn trong vườn ngự uyển ở hoàng cung, tức trong Vườn U-xa. A-môn con trai ông lên ngôi kế vị.
A-môn Trị Vì Giu-đa
(2 Sử 33:21-25)
19. A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Mê-su-lê-mết con gái của Ha-ru cháu của Giọt-ba. 20. Ông làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA như Ma-na-se cha ông đã làm. 21. Ông đi theo mọi đường lối cha ông đã đi. Ông phục vụ các thần tượng cha ông đã phục vụ, và ông thờ phượng chúng. 22. Ông lìa bỏ CHÚA, Ðức Chúa Trời của tổ tiên ông và không đi theo các đường lối CHÚA. 23. Các tôi tớ của A-môn lập mưu làm phản và hạ sát ông ngay trong cung điện. 24. Nhưng dân trong nước xử tử tất cả những kẻ đã âm mưu và giết Vua A-môn; rồi dân trong nước lập Giô-si-a con trai ông lên ngôi kế vị.
25. Tất cả những việc khác của A-môn làm há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 26. Ông được chôn trong mộ của ông trong Vườn U-xa. Sau đó Giô-si-a con trai ông lên ngôi kế vị.

Tài Liệu