Khác biệt giữa các bản “Phục Truyền Luật Lệ Ký: Chương 33”
(Không hiển thị 5 phiên bản của cùng người dùng ở giữa) | |||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
==Bản Dịch Việt Ngữ== | ==Bản Dịch Việt Ngữ== | ||
− | 1. Đây là lời chúc phước mà Môi-se, người của Đức Chúa Trời, đã chúc cho dân Y-sơ-ra-ên, trước khi ông qua đời. 2. Ông nói: Đức Giê-hô-va đã đến từ Si-nai. Từ núi Pha-ran, Ngài đã tỏa sáng trên họ như ánh bình minh đến từ Sê-i-rơ. Ngài đã đến với hàng vạn đấng thánh, và ngọn lửa luật pháp trong tay phải của Ngài soi sáng cho họ. 3. Thật vậy, Ngài yêu mến các dân, tất cả những đấng thánh của Ngài ở trong tay của Ngài, họ phủ phục nơi chân của Ngài, để nhận lãnh lời của Ngài. 4. Môi-se đã ban luật pháp cho chúng ta. Đó là tài sản cho cộng đồng của Gia-cốp. 5. Ngài là vua của Giê-su-run khi các lãnh đạo của dân chúng họp lại cùng với các chi tộc của Y-sơ-ra-ên. | + | 1. Đây là lời chúc phước mà Môi-se, người của Đức Chúa Trời, đã chúc cho dân Y-sơ-ra-ên, trước khi ông qua đời. 2. Ông nói: Đức Giê-hô-va đã đến từ Si-nai. Từ núi Pha-ran, Ngài đã tỏa sáng trên họ như ánh bình minh đến từ Sê-i-rơ. Ngài đã đến với hàng vạn đấng thánh, và ngọn lửa luật pháp trong tay phải của Ngài soi sáng cho họ. 3. Thật vậy, Ngài yêu mến các dân, tất cả những đấng thánh của Ngài ở trong tay của Ngài, họ phủ phục nơi chân của Ngài, để nhận lãnh lời của Ngài. 4. Môi-se đã ban luật pháp cho chúng ta. Đó là tài sản cho cộng đồng của Gia-cốp. 5. Ngài là vua của Giê-su-run - khi các lãnh đạo của dân chúng họp lại cùng với các chi tộc của Y-sơ-ra-ên. |
6. Nguyện cho Ru-bên được sống, không bị chết, dầu dân số của người có ít. | 6. Nguyện cho Ru-bên được sống, không bị chết, dầu dân số của người có ít. | ||
Dòng 7: | Dòng 7: | ||
7. Về Giu-đa, ông nói: Lạy Đức Giê-hô-va! Xin Ngài nghe tiếng của Giu-đa và đem người đến với dân của mình. Xin cho tay của người được đầy đủ. Cầu xin Ngài giúp người chống lại quân thù của người. | 7. Về Giu-đa, ông nói: Lạy Đức Giê-hô-va! Xin Ngài nghe tiếng của Giu-đa và đem người đến với dân của mình. Xin cho tay của người được đầy đủ. Cầu xin Ngài giúp người chống lại quân thù của người. | ||
− | 8. Về Lê-vi, ông nói: Xin ban Thu-mim và U-rim cho người tin kính Ngài, mà Ngài đã thử thách tại Ma-sa trong vụ tranh luận về nước tại Mê-ri-ba; 9. là người - vì vâng theo lời của Ngài và gìn giữ giao ước của Ngài - đã nói về cha và mẹ của mình rằng: "Con không thiên vị họ", cũng không | + | 8. Về Lê-vi, ông nói: Xin ban Thu-mim và U-rim cho người tin kính Ngài, mà Ngài đã thử thách tại Ma-sa trong vụ tranh luận về nước tại Mê-ri-ba; 9. là người - vì vâng theo lời của Ngài và gìn giữ giao ước của Ngài - đã nói về cha và mẹ của mình rằng: "Con không thiên vị họ", và cũng không phân biệt anh em của mình, hay là con cái của mình. 10. Họ dạy cho Gia-cốp luật lệ của Ngài và cho Y-sơ-ra-ên luật pháp của Ngài. Họ thắp hương trước mặt Ngài và dâng tế lễ thiêu trên bàn thờ của Ngài. 11. Lạy Đức Giê-hô-va! Xin ban sức lực cho người và chấp nhận công việc của tay người. Xin đánh vào hông những kẻ thù của người, là những kẻ ghét người, để chúng không nổi lên nữa. |
12. Về Bên-gia-min, ông nói: Người được Đức Giê-hô-va yêu mến sẽ được sống yên bình bên cạnh Ngài, là Đấng che chở người suốt cả đời, và người được cư trú giữa hai vai của Ngài. | 12. Về Bên-gia-min, ông nói: Người được Đức Giê-hô-va yêu mến sẽ được sống yên bình bên cạnh Ngài, là Đấng che chở người suốt cả đời, và người được cư trú giữa hai vai của Ngài. | ||
− | 13. Về Giô-sép, ông nói: Nguyện đất của người được Đức Giê-hô-va ban phước với những vật quý giá như sương móc trên trời, nước nằm dưới vực sâu, 14. những bông trái thượng hạng của mặt trời, những sản phẩm tuyệt hảo của mặt trăng, 15. những vật tốt nhất từ những ngọn núi cổ xưa, | + | 13. Về Giô-sép, ông nói: Nguyện đất của người được Đức Giê-hô-va ban phước với những vật quý giá như sương móc trên trời, nước nằm dưới vực sâu, 14. những bông trái thượng hạng của mặt trời, những sản phẩm tuyệt hảo của mặt trăng, 15. những vật tốt nhất từ những ngọn núi cổ xưa, những phẩm vật tuyển chọn từ những ngọn đồi vĩnh cửu, 16. những báu vật của trái đất cùng với sự sung mãn của nó. Nguyện ân phước của Đấng ngự trong bụi gai giáng trên đầu của Giô-sép và trên đỉnh đầu của một người đã được biệt riêng ra giữa những anh em của mình. 17. Người oai nghi lẫm liệt như một con bò đực đầu lòng. Sừng của người như sừng của con bò rừng. Người dùng chúng đẩy các dân tộc cho đến tận cùng của trái đất. Hàng vạn người Ép-ra-im, và hàng ngàn người Ma-na-se. |
+ | |||
+ | 18. Về Sa-bu-lôn, ông nói: Hỡi Sa-bu-lôn! Hãy vui mừng trong lúc ra đi. Hỡi Y-sa-ca! Hãy vui mừng tại ngay trong lều trại của mình. 19. Họ sẽ kêu gọi các dân tộc lên núi, rồi dâng những sinh tế công chính tại đó, bởi vì họ sẽ thu thập tài nguyên của biển và những kho tàng ẩn giấu trong cát. | ||
+ | |||
+ | 20. Về Gát, ông nói: Chúc tụng Đấng mở rộng bờ cõi của Gát. Gát phục xuống như một con sư tử, xé tay lẫn đầu của con mồi, 21. rồi chọn phần tốt nhất cho mình, bởi vì trong đó có dành phần cho người phân xử luật pháp. Khi những lãnh đạo của dân chúng họp lại thì Gát áp dụng công lý của Đức Giê-hô-va và phán quyết của Ngài cho Y-sơ-ra-ên. | ||
+ | |||
+ | 22. Về Đan, ông nói: Đan là một con sư tử tơ. Từ Ba-san, ngươi nhảy ra. | ||
+ | |||
+ | 23. Về Nép-ta-li, ông nói: Nép-ta-li được thỏa thuê với ân huệ và đầy tràn những phước lành của Đức Giê-hô-va. Hãy chiếm hữu miền tây và miền nam. | ||
+ | |||
+ | 24. Về A-se, ông nói: Nguyện A-se được phước hơn những đứa con trai khác. Nguyện người được những anh em của mình yêu thích. Hãy để cho chân của người được dầm trong dầu. 25. Những then cài của ngươi được làm bằng sắt, bằng đồng, và sức mạnh của ngươi tồn tại suốt cả cuộc đời. | ||
+ | |||
+ | 26. Không một ai như Đức Chúa Trời của Giê-ru-sun, là Đấng cỡi các từng trời đến để cứu giúp ngươi. Sự oai nghi tuyệt đỉnh của Ngài ở trên những tầng mây. 27. Đức Chúa Trời vĩnh cửu là nơi trú ẩn của ngươi. Bên dưới của ngươi có cánh tay đời đời của Ngài. Ngài đánh đuổi quân thù trước mặt ngươi, rồi phán: Hãy hủy diệt! 28. Nhờ vậy, Y-sơ-ra-ên sẽ sống an toàn. Dòng suối của Gia-cốp đã được biệt riêng ra, trong một xứ có ngũ cốc, rượu, và đượm nhuần sương móc từ trời. 29. Hỡi Y-sơ-ra-ên! Ngươi là một dân tộc được phước. Có ai giống như ngươi là một dân tộc được Đức Giê-hô-va giải cứu! Ngài là thuẫn che chở, là Đấng cứu giúp, là thanh gươm, là niềm kiêu hãnh của ngươi. Quân thù sẽ phủ phục trước mặt ngươi, còn ngươi sẽ giày đạp trên những nơi cao của chúng. | ||
==Bản Dịch 1925== | ==Bản Dịch 1925== |
Bản hiện tại lúc 06:24, ngày 24 tháng 12 năm 2023
Bản Dịch Việt Ngữ
1. Đây là lời chúc phước mà Môi-se, người của Đức Chúa Trời, đã chúc cho dân Y-sơ-ra-ên, trước khi ông qua đời. 2. Ông nói: Đức Giê-hô-va đã đến từ Si-nai. Từ núi Pha-ran, Ngài đã tỏa sáng trên họ như ánh bình minh đến từ Sê-i-rơ. Ngài đã đến với hàng vạn đấng thánh, và ngọn lửa luật pháp trong tay phải của Ngài soi sáng cho họ. 3. Thật vậy, Ngài yêu mến các dân, tất cả những đấng thánh của Ngài ở trong tay của Ngài, họ phủ phục nơi chân của Ngài, để nhận lãnh lời của Ngài. 4. Môi-se đã ban luật pháp cho chúng ta. Đó là tài sản cho cộng đồng của Gia-cốp. 5. Ngài là vua của Giê-su-run - khi các lãnh đạo của dân chúng họp lại cùng với các chi tộc của Y-sơ-ra-ên.
6. Nguyện cho Ru-bên được sống, không bị chết, dầu dân số của người có ít.
7. Về Giu-đa, ông nói: Lạy Đức Giê-hô-va! Xin Ngài nghe tiếng của Giu-đa và đem người đến với dân của mình. Xin cho tay của người được đầy đủ. Cầu xin Ngài giúp người chống lại quân thù của người.
8. Về Lê-vi, ông nói: Xin ban Thu-mim và U-rim cho người tin kính Ngài, mà Ngài đã thử thách tại Ma-sa trong vụ tranh luận về nước tại Mê-ri-ba; 9. là người - vì vâng theo lời của Ngài và gìn giữ giao ước của Ngài - đã nói về cha và mẹ của mình rằng: "Con không thiên vị họ", và cũng không phân biệt anh em của mình, hay là con cái của mình. 10. Họ dạy cho Gia-cốp luật lệ của Ngài và cho Y-sơ-ra-ên luật pháp của Ngài. Họ thắp hương trước mặt Ngài và dâng tế lễ thiêu trên bàn thờ của Ngài. 11. Lạy Đức Giê-hô-va! Xin ban sức lực cho người và chấp nhận công việc của tay người. Xin đánh vào hông những kẻ thù của người, là những kẻ ghét người, để chúng không nổi lên nữa.
12. Về Bên-gia-min, ông nói: Người được Đức Giê-hô-va yêu mến sẽ được sống yên bình bên cạnh Ngài, là Đấng che chở người suốt cả đời, và người được cư trú giữa hai vai của Ngài.
13. Về Giô-sép, ông nói: Nguyện đất của người được Đức Giê-hô-va ban phước với những vật quý giá như sương móc trên trời, nước nằm dưới vực sâu, 14. những bông trái thượng hạng của mặt trời, những sản phẩm tuyệt hảo của mặt trăng, 15. những vật tốt nhất từ những ngọn núi cổ xưa, những phẩm vật tuyển chọn từ những ngọn đồi vĩnh cửu, 16. những báu vật của trái đất cùng với sự sung mãn của nó. Nguyện ân phước của Đấng ngự trong bụi gai giáng trên đầu của Giô-sép và trên đỉnh đầu của một người đã được biệt riêng ra giữa những anh em của mình. 17. Người oai nghi lẫm liệt như một con bò đực đầu lòng. Sừng của người như sừng của con bò rừng. Người dùng chúng đẩy các dân tộc cho đến tận cùng của trái đất. Hàng vạn người Ép-ra-im, và hàng ngàn người Ma-na-se.
18. Về Sa-bu-lôn, ông nói: Hỡi Sa-bu-lôn! Hãy vui mừng trong lúc ra đi. Hỡi Y-sa-ca! Hãy vui mừng tại ngay trong lều trại của mình. 19. Họ sẽ kêu gọi các dân tộc lên núi, rồi dâng những sinh tế công chính tại đó, bởi vì họ sẽ thu thập tài nguyên của biển và những kho tàng ẩn giấu trong cát.
20. Về Gát, ông nói: Chúc tụng Đấng mở rộng bờ cõi của Gát. Gát phục xuống như một con sư tử, xé tay lẫn đầu của con mồi, 21. rồi chọn phần tốt nhất cho mình, bởi vì trong đó có dành phần cho người phân xử luật pháp. Khi những lãnh đạo của dân chúng họp lại thì Gát áp dụng công lý của Đức Giê-hô-va và phán quyết của Ngài cho Y-sơ-ra-ên.
22. Về Đan, ông nói: Đan là một con sư tử tơ. Từ Ba-san, ngươi nhảy ra.
23. Về Nép-ta-li, ông nói: Nép-ta-li được thỏa thuê với ân huệ và đầy tràn những phước lành của Đức Giê-hô-va. Hãy chiếm hữu miền tây và miền nam.
24. Về A-se, ông nói: Nguyện A-se được phước hơn những đứa con trai khác. Nguyện người được những anh em của mình yêu thích. Hãy để cho chân của người được dầm trong dầu. 25. Những then cài của ngươi được làm bằng sắt, bằng đồng, và sức mạnh của ngươi tồn tại suốt cả cuộc đời.
26. Không một ai như Đức Chúa Trời của Giê-ru-sun, là Đấng cỡi các từng trời đến để cứu giúp ngươi. Sự oai nghi tuyệt đỉnh của Ngài ở trên những tầng mây. 27. Đức Chúa Trời vĩnh cửu là nơi trú ẩn của ngươi. Bên dưới của ngươi có cánh tay đời đời của Ngài. Ngài đánh đuổi quân thù trước mặt ngươi, rồi phán: Hãy hủy diệt! 28. Nhờ vậy, Y-sơ-ra-ên sẽ sống an toàn. Dòng suối của Gia-cốp đã được biệt riêng ra, trong một xứ có ngũ cốc, rượu, và đượm nhuần sương móc từ trời. 29. Hỡi Y-sơ-ra-ên! Ngươi là một dân tộc được phước. Có ai giống như ngươi là một dân tộc được Đức Giê-hô-va giải cứu! Ngài là thuẫn che chở, là Đấng cứu giúp, là thanh gươm, là niềm kiêu hãnh của ngươi. Quân thù sẽ phủ phục trước mặt ngươi, còn ngươi sẽ giày đạp trên những nơi cao của chúng.
Bản Dịch 1925
1. Vả, nầy là lời chúc phước mà Môi-se, người của Đức Chúa Trời, chúc cho dân Y-sơ-ra-ên, trước khi qua đời. 2. Người bèn nói: Đức Giê-hô-va đã đến từ Si-na-i, Ngài từ Sê-i-rơ dấy lên trên dân chúng, Chiếu sáng từ núi Pha-ran, Đến từ giữa muôn vàn đấng thánh; Từ tay hữu Ngài phát ra cho họ lửa của luật pháp Ngài.
3. Ngài thương yêu dân sự, Các thánh của Ngài đều ở trong tay Ngài, Quì xuống chân Ngài, Đặng lãnh những lời của Ngài.
4. Môi-se đã ban một luật pháp cho chúng tôi, Là cơ nghiệp của hội chúng Gia-cốp.
5. Khi các quan trưởng của dân sự hội hiệp, Với những chi phái Y-sơ-ra-ên, Thì Ngài trở nên vua của Giê-su-run.
6. Nguyện Ru-bên sống, chớ thác, Dẫu số người của nó sẽ ít đông.
7. Người chúc cho Giu-đa rằng: Hỡi Đức Giê-hô-va, cầu xin Ngài nghe tiếng của Giu-đa, Và đưa người về dân mình; Nguyện tay người binh vực chúng, Xin Chúa đến giúp người đương địch cùng kẻ thù nghịch mình!
8. Người cũng chúc cho Lê-vi rằng: Thu-mim và u-rim của ngươi vốn thuộc về người tin kính của ngươi, Mà ngươi thử thách tại Ma-sa, Tranh giành với tại nước Mê-ri-ba.
9. Lê-vi nói về cha mẹ mình rằng: Tôi không hề thấy cha mẹ; Người không nhận anh em mình, Chẳng biết đến con cái mình. Vì người gìn giữ lời Chúa, Canh chừng sự giao ước của Chúa.
10. Họ lấy mạng lịnh của Chúa dạy cho Gia-cốp, Và luật pháp Chúa cho Y-sơ-ra-ên; Họ để hương dưới mũi Ngài, Đặt của lễ thiêu trên bàn thờ Ngài.
11. Lạy Đức Giê-hô-va, xin ban phước cho của cải người, Và nhậm công việc của tay người làm. Xin bẻ nát họng của kẻ dấy nghịch và ghen ghét người, Để chúng nó không thế dấy lên nữa!
12. Người chúc về Bên-gia-min rằng: Người mà Đức Giê-hô-va yêu mến Sẽ được ở yên gần bên Ngài. Hằng ngày Đức Giê-hô-va sẽ che chở người, Lập nơi ở Ngài giữa hai vai người.
13. Người chúc về Giô-sép rằng: Xứ người được Đức Giê-hô-va ban phước; Từ trời Ngài giáng xuống cho người ân tứ rất báu, là sương-móc, Những suối của vực thẳm có nước sâu;
14. Những huê lợi quí nhất của mặt trời, Hoa quả cực báu của mặt trăng;
15. Những vật nhất hạng của núi xưa, Các báu lạ của mấy gò đống đời đời,
16. Bửu bối của đất, và sự sung mãn nó. Nguyện ơn của Đấng hiện ra trong bụi gai Giáng xuống trên đầu Giô-sép, Và trên trán của chúa anh em người!
17. Oai nghiêm người giống như con bò đực đầu lòng; Hai sừng người vốn sừng của trâu! Người lấy sừng ấy báng mọi dân, Cho đến cuối đầu của đất. Đó là hằng muôn của Ép-ra-im, Ấy là hằng ngàn của Ma-na-se.
18. Người chúc về Sa-bu-lôn rằng: Hỡi Sa-bu-lôn, khá vui mừng về cuộc mình đi ra ngoài, Còn ngươi, Y-sa-ca, hãy hớn hở trong các trại mình!
19. Hai người sẽ gọi các dân tộc lên núi; Tại đó, dâng những của tế lễ công bình; Vì hai người sẽ hút sự dư dật của biển, Và những bửu vật lấp dưới cát.
20. Người chúc về Gát rằng: Đáng ngợi khen thay Đấng để Gát nơi quảng-khoát, Người nằm nghỉ như một sư tử cái, Và xé cánh tay cùng đầu.
21. Người đã chọn cho mình phần đầu nhất của xứ, Bởi vì tại đó đã dành phần của đấng lập luật pháp, Và người ở đằng đầu dân sự đi đến. Người đồng lòng với Y-sơ-ra-ên làm xong công bình của Đức Giê-hô-va, Và làm theo những mạng lịnh của Ngài.
22. Người chúc về Đan rằng: Đan là một sư tử tơ, Từ Ba-san nhảy xông đến.
23. Người chúc về Nép-ta-li rằng: Nép-ta-li hưởng ân huệ cho thỏa nguyện, Và phước lành của Đức Giê-hô-va cho đầy dẫy, Chiếm được phương tây và phương nam.
24. Người chúc về A-se rằng: Nguyện cho A-se được phước giữa các con trai Y-sơ-ra-ên; Được đẹp lòng anh em mình, Và được dầm chân mình trong dầu!
25. Những then cửa người sẽ bằng sắt và đồng, Đời ngươi lâu bao nhiêu, sức mạng ngươi lâu bấy nhiêu.
26. Ồ Giê-su-run, không ai giống như Đức Chúa Trời, Là Đấng oai nghi, cỡi trên các từng trời, Trên những đám mây, đặng đến cứu giúp ngươi.
27. Đức Chúa Trời hằng sống là nơi ở của ngươi, Ở dưới có cánh tay đời đời của Ngài, Ngài đuổi kẻ thù nghịch khỏi trước mặt ngươi, Và phán cùng ngươi rằng: Hãy diệt đi!
28. Y-sơ-ra-ên sẽ ở bình an; Suối Gia-cốp phun lên riêng ra Trong một xứ ngũ cốc và rượu; Trời của ngươi nhỏ sương móc xuống.
29. Ồ! Y-sơ-ra-ên, ngươi có phước dường bao! Hỡi dân được Đức Giê-hô-va cứu rỗi, ai giống như ngươi? Ngài là cái thuẫn giúp đỡ ngươi, Thanh gươm khiến cho ngươi nên vinh hiển. Kẻ thù nghịch ngươi sẽ đến dua nịnh ngươi; Còn ngươi, ngươi sẽ lấy chân giày đạp các nơi cao của chúng nó.
Bản Dịch 2011
Những Lời Chúc Phước Cuối Cùng của Môi-se
1 Ðây là những lời chúc phước mà Môi-se, người của Ðức Chúa Trời, đã chúc phước cho dân I-sơ-ra-ên trước khi ông qua đời. 2 Ông nói,
“CHÚA đã từ trên Núi Si-nai ngự xuống,
Ngài như ánh bình minh từ dãy Núi Sê-i-rơ chiếu sáng trên họ,
Từ trên Núi Pa-ran Ngài đã tỏa rạng ra;
Ði theo Ngài có hàng vạn đấng thánh;
Lửa từ tay phải Ngài khắc luật vào bảng đá.
3 Quả thật Ngài yêu thương dân Ngài;
Tất cả đấng thánh của Ngài đều ở trong tay Ngài;
Họ phủ phục nơi chân Ngài chờ lệnh,
Họ chờ lệnh Ngài sai phái họ đi.
4 Môi-se truyền cho chúng ta luật pháp,
Ðó là gia sản cho hội chúng của dòng dõi Gia-cốp.
5 Ngài là vua ở giữa Giê-su-run,
Khi các nhà lãnh đạo của dân họp lại,
Tức khi các chi tộc của I-sơ-ra-ên hiệp lại với nhau.
6 Nguyện Ru-bên vẫn sống mãi và không bị mất đi,
Dầu dân số của ông ít ỏi.”
7 Ðây là những gì ông chúc cho Giu-đa,
“Lạy CHÚA, xin nghe tiếng của Giu-đa cầu khẩn,
Xin đem ông về với dân của ông ta;
Xin phù hộ để tay ông bảo vệ chính mình;
Xin Ngài giúp đỡ ông đối phó với quân thù của ông ấy.”
8 Về Lê-vi ông chúc,
“Xin ban Thum-mim và U-rim của Ngài cho người trung thành với Ngài,
Người Ngài đã thử tại Mát-sa,
Người Ngài đã đối phó trong vụ nước ở Mê-ri-ba,
9 Người đã nói về cha và mẹ của mình rằng, ‘Con thấy họ không cần đến con hơn Ngài,’
Người đã quên cả thân nhân,
Người đã vì Ngài mà không biết đến con cái;
Vì họ mãi lo vâng theo lời Ngài,
Và gìn giữ giao ước Ngài.
10 Họ dạy cho Gia-cốp luật lệ Ngài,
Và cho I-sơ-ra-ên luật pháp Ngài;
Họ lo việc dâng hương trước thánh nhan Ngài;
Họ thi hành chức vụ dâng các của lễ thiêu trên bàn thờ Ngài.
11 Lạy CHÚA, xin ban phước cho những gì thuộc về ông ấy,
Xin chấp nhận những việc do tay ông ấy làm;
Xin bẻ gãy lưng quân thù của ông ấy,
Tức lưng của những kẻ ghét ông ấy,
Hầu chúng không đứng dậy được nữa.”
12 Về Bên-gia-min ông nói,
“Người được CHÚA thương sẽ ở an toàn trong Ngài;
Ngài che chở ông ấy suốt ngày;
Ông ấy sẽ ở giữa hai vai Ngài.”
13 Về Giô-sép ông chúc,
“Ðịa phận của ông ấy được CHÚA ban phước,
Bằng những ơn phước quý báu từ trời là sương móc,
Bằng những ơn phước dồi dào nằm sâu trong lòng đất là sông suối,
14 Bằng những hoa quả tốt tươi do ánh nắng mặt trời mang lại,
Bằng những cây trái sai quằn lớn lên trong những đêm trăng,
15 Bằng những lâm sản quý báu do rừng già mang lại,
Bằng những sản vật dồi dào của đồi nổng thiên thu,
16 Bằng những thổ sản tốt nhất của đất đai màu mỡ,
Và bằng hồng ân của Ðấng ngự giữa bụi gai.
Nguyện những phước hạnh ấy đổ trên đầu Giô-sép,
Và trên đỉnh đầu của người được biệt riêng ra giữa các anh chị em mình.
17 Quyền uy của ông mạnh như con bò mộng đầu lòng,
Các sừng của ông mạnh như sức mạnh của sừng trâu;
Ông dùng các sừng đó húc các dân các nước,
Ðuổi chúng chạy xa đến cùng tận địa cầu;
Ðó là sức mạnh của hàng vạn người Ép-ra-im,
Ðó là sức mạnh của hàng ngàn người Ma-na-se.”
18 Về Xê-bu-lun ông chúc,
“Hỡi Xê-bu-lun,
Hãy vui mừng, mỗi khi ông xuống thuyền đi viễn phương buôn bán.
Hỡi I-sa-ca,
Nguyện ông được thành công trong các lều trại của ông.
19 Họ mời gọi các dân lên núi,
Tại đó họ dâng những của lễ theo đúng luật truyền.
Họ đã hút lấy những tài nguyên của biển cả,
Và những bửu vật ẩn giấu dưới cát vàng.”
20 Về Gát ông chúc,
“Chúc tụng Ðấng làm cho Gát được mở rộng bờ cõi!
Gát sống kiêu hùng như sư tử giữa rừng,
Nó xé tay và đầu cổ con mồi.
21 Ông chọn phần tốt nhất cho mình,
Vì trong lãnh thổ của ông có phần sản nghiệp dành cho người lãnh đạo;
Ông đến với các thủ lãnh của dân;
Ông thi hành công lý của CHÚA,
Và các luật lệ của Ngài cho I-sơ-ra-ên.”
22 Về Ðan ông chúc,
“Ðan là một sư tử tơ,
Từ Ba-san phóng đến.”
23 Về Náp-ta-li ông chúc,
“Hỡi Náp-ta-li, người được no nê hồng ân,
Ðầy tràn những phước hạnh của CHÚA,
Hãy chiếm lấy miền tây và miền nam.”
24 Về A-se ông chúc,
“A-se là đứa con được phước nhất trong các con;
Nguyện ông ấy được xem là người được các anh chị em mình ưa thích,
Và nguyện dầu ô-liu do ông sản xuất nhiều đến nỗi ông có thể dùng chúng để dầm chân.
25 Nguyện ông được an ninh bên trong những thành có cổng gài bằng thanh sắt và thanh đồng;
Nguyện sức khỏe của ông bền bỉ theo tuổi thọ của ông.
26 Hỡi Giê-su-run, chẳng có ai giống như Ðức Chúa Trời,
Ðấng cỡi trên các tầng trời đến giúp đỡ ông;
Sự huy hoàng của Ngài thể hiện trên các tầng mây.
27 Ðức Chúa Trời đời đời là Ðấng ông nương náu;
Hai tay hằng hữu của Ngài luôn ở bên dưới để đỡ nâng ông.
Ngài đánh đuổi quân thù của ông đi khỏi mặt ông,
Và phán, ‘Hãy tiêu diệt!’
28 Nhờ đó I-sơ-ra-ên được sống an toàn,
Con cháu của Gia-cốp được an ninh,
Trong một xứ đầy lúa gạo và rượu ngon,
Từ trời cao sương móc vẫn tiếp tục rơi xuống.
29 Hỡi I-sơ-ra-ên, phước thay cho ông!
Nào ai được như ông,
Một dân tộc được CHÚA cứu.
Ngài là thuẫn khiên để giúp đỡ ông,
Và là thanh gươm để ban cho ông chiến thắng.
Quân thù của ông sẽ đến phủ phục trước mặt ông;
Còn ông, ông sẽ giày đạp trên những nơi cao của chúng.”
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
- Xuất Ê-díp-tô Ký
- Phục Truyền Luật Lệ Ký
- Phục Truyền Luật Lệ Ký: Chương 32
- Phục Truyền Luật Lệ Ký: Chương 34
- Bách Khoa Từ Điển Tin Lành