Khác biệt giữa các bản “Nê-hê-mi: Chương 9”
(Added audio) |
|||
(Không hiển thị 2 phiên bản của cùng người dùng ở giữa) | |||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
− | ==Bản Dịch | + | ==Bản Dịch Việt Ngữ== |
'''Lời Xưng Tội Của Quốc Gia''' | '''Lời Xưng Tội Của Quốc Gia''' | ||
− | Vào ngày hai mươi bốn của tháng nầy, dân Y-sơ-ra-ên họp lại kiêng ăn, mặc vải thô, và rải bụi đất trên đầu. Những người thuộc dòng giống Y-sơ-ra-ên đã tự tách biệt họ khỏi tất cả những người ngoại quốc; họ đã đứng dậy xưng tội của mình và những gian ác của tổ phụ mình. Họ đứng tại chỗ và đọc sách luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời trong một phần tư ngày, và một phần tư ngày khác họ xưng tội và thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình. | + | 1. Vào ngày hai mươi bốn của tháng nầy, dân Y-sơ-ra-ên họp lại kiêng ăn, mặc vải thô, và rải bụi đất trên đầu. 2. Những người thuộc dòng giống Y-sơ-ra-ên đã tự tách biệt họ khỏi tất cả những người ngoại quốc; họ đã đứng dậy xưng tội của mình và những gian ác của tổ phụ mình. 3. Họ đứng tại chỗ và đọc sách luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời trong một phần tư ngày, và một phần tư ngày khác họ xưng tội và thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình. |
− | Sau đó, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni và Kê-na-ni đứng trên bục dành cho những người Lê-vi, và | + | 4. Sau đó, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni và Kê-na-ni đứng trên bục dành cho những người Lê-vi, và kêu cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. 5. Những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia và Phê-ta-hia nói: Hãy đứng lên chúc tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh chị em, là Đấng vĩnh hằng! |
− | + | "Chúc tụng danh vinh quang của Ngài,<br/> | |
− | |||
− | Chúc tụng danh vinh quang của Ngài,<br/> | ||
Là danh vượt lên trên mọi lời chúc tụng và ngợi ca.<br/> | Là danh vượt lên trên mọi lời chúc tụng và ngợi ca.<br/> | ||
− | Duy chỉ một mình Ngài là Đức Giê-hô-va;<br/> | + | 6. Duy chỉ một mình Ngài là Đức Giê-hô-va;<br/> |
− | Ngài đã dựng nên bầu trời,<br/> | + | Ngài đã dựng nên bầu trời, <br/> |
− | Và trời của các tầng trời,<br/> | + | Và trời của các tầng trời, <br/> |
Cùng toàn thể thiên binh,<br/> | Cùng toàn thể thiên binh,<br/> | ||
Dòng 29: | Dòng 27: | ||
Các thiên binh thờ phượng Ngài.<br/> | Các thiên binh thờ phượng Ngài.<br/> | ||
− | Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời,<br/> | + | 7. Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời, <br/> |
Đấng đã chọn Áp-ram, <br/> | Đấng đã chọn Áp-ram, <br/> | ||
− | Và đã đem ông ra khỏi xứ U-rơ của những người Canh-đê,<br/> | + | Và đã đem ông ra khỏi xứ U-rơ của những người Canh-đê, <br/> |
Và đã ban cho ông tên Áp-ra-ham.<br/> | Và đã ban cho ông tên Áp-ra-ham.<br/> | ||
− | Ngài thấy lòng trung tín của ông trước mặt Ngài,<br/> | + | 8. Ngài thấy lòng trung tín của ông trước mặt Ngài, <br/> |
Và đã lập một giao ước với ông, <br/> | Và đã lập một giao ước với ông, <br/> | ||
Dòng 45: | Dòng 43: | ||
Dân Hê-tít, dân A-mô-rít, <br/> | Dân Hê-tít, dân A-mô-rít, <br/> | ||
− | Dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít,<br/> | + | Dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, <br/> |
Và dân Ghi-rê-ga-sít <br/> | Và dân Ghi-rê-ga-sít <br/> | ||
− | Ban điều đó cho dòng dõi của ông;<br/> | + | Ban điều đó cho dòng dõi của ông; <br/> |
Ngài đã thực hiện lời của Ngài <br/> | Ngài đã thực hiện lời của Ngài <br/> | ||
Dòng 55: | Dòng 53: | ||
Bởi vì Ngài là công chính.<br/> | Bởi vì Ngài là công chính.<br/> | ||
− | Ngài đã thấy nỗi khốn khổ của tổ phụ chúng con tại Ai | + | 9. Ngài đã thấy nỗi khốn khổ của tổ phụ chúng con tại Ai-cập,<br/> |
Và nghe tiếng kêu cầu của họ bên Biển Đỏ,<br/> | Và nghe tiếng kêu cầu của họ bên Biển Đỏ,<br/> | ||
− | Ngài đã thực hiện những dấu hiệu và những việc diệu kỳ để chống lại Pha-ra-ôn,<br/> | + | 10. Ngài đã thực hiện những dấu hiệu và những việc diệu kỳ để chống lại Pha-ra-ôn,<br/> |
Chống lại những quần thần của ông,<br/> | Chống lại những quần thần của ông,<br/> | ||
Dòng 69: | Dòng 67: | ||
Vì vậy, Ngài đã làm vinh hiển danh của Ngài như ngày nay.<br/> | Vì vậy, Ngài đã làm vinh hiển danh của Ngài như ngày nay.<br/> | ||
− | Chúa đã phân rẽ biển trước mặt họ<br/> | + | 11. Chúa đã phân rẽ biển trước mặt họ<br/> |
Để họ đi qua giữa biển trên đất khô.<br/> | Để họ đi qua giữa biển trên đất khô.<br/> | ||
Dòng 77: | Dòng 75: | ||
Như một tảng đá rơi vào những dòng nước mạnh.<br/> | Như một tảng đá rơi vào những dòng nước mạnh.<br/> | ||
− | Ngài còn dẫn dắt họ ban ngày bằng trụ mây<br/> | + | 12. Ngài còn dẫn dắt họ ban ngày bằng trụ mây<br/> |
Và ban đêm bằng trụ lửa <br/> | Và ban đêm bằng trụ lửa <br/> | ||
− | Để ban ánh sáng cho họ trên con đường<br/> | + | Để ban ánh sáng cho họ trên con đường <br/> |
Mà họ phải trải qua.<br/> | Mà họ phải trải qua.<br/> | ||
− | Ngài cũng ngự xuống trên núi Si- | + | 13. Ngài cũng ngự xuống trên núi Si-nai,<br/> |
Phán với họ từ trời,<br/> | Phán với họ từ trời,<br/> | ||
Dòng 93: | Dòng 91: | ||
Những quy tắc và điều răn tốt lành.<br/> | Những quy tắc và điều răn tốt lành.<br/> | ||
− | Ngài khiến họ biết ngày sa-bát thánh của Ngài,<br/> | + | 14. Ngài khiến họ biết ngày sa-bát thánh của Ngài,<br/> |
Và ban cho họ những điều răn, quy tắc và luật pháp,<br/> | Và ban cho họ những điều răn, quy tắc và luật pháp,<br/> | ||
Dòng 99: | Dòng 97: | ||
Qua bàn tay của Môi-se, đầy tớ Ngài.<br/> | Qua bàn tay của Môi-se, đầy tớ Ngài.<br/> | ||
− | Ngài ban bánh từ trời khi họ đói,<br/> | + | 15. Ngài ban bánh từ trời khi họ đói,<br/> |
Và mang nước từ vầng đá khi họ khát,<br/> | Và mang nước từ vầng đá khi họ khát,<br/> | ||
Dòng 107: | Dòng 105: | ||
Mà Ngài đã hứa ban cho họ.<br/> | Mà Ngài đã hứa ban cho họ.<br/> | ||
− | Nhưng họ và các tổ phụ của chúng con<br/> | + | 16. Nhưng họ và các tổ phụ của chúng con <br/> |
Cư xử cách kiêu ngạo và cứng cổ,<br/> | Cư xử cách kiêu ngạo và cứng cổ,<br/> | ||
Dòng 113: | Dòng 111: | ||
Không nghe theo những mạng lệnh của Ngài.<br/> | Không nghe theo những mạng lệnh của Ngài.<br/> | ||
− | Họ không chịu vâng lời <br/> | + | 17. Họ không chịu vâng lời <br/> |
− | Và không nhớ đến những việc diệu kỳ<br/> | + | Và không nhớ đến những việc diệu kỳ <br/> |
Mà Ngài đã làm ở giữa họ,<br/> | Mà Ngài đã làm ở giữa họ,<br/> | ||
Dòng 139: | Dòng 137: | ||
Và đã không từ bỏ họ.<br/> | Và đã không từ bỏ họ.<br/> | ||
− | Thậm chí khi họ đúc một con bò con cho mình:<br/> | + | 18. Thậm chí khi họ đúc một con bò con cho mình:<br/> |
Và nói: ‘Đây là thần của các ngươi<br/> | Và nói: ‘Đây là thần của các ngươi<br/> | ||
Dòng 147: | Dòng 145: | ||
Và đã hành động xúc phạm nặng nề,<br/> | Và đã hành động xúc phạm nặng nề,<br/> | ||
− | Dầu vậy, trong sự thương xót vô lượng của Ngài<br/> | + | 19. Dầu vậy, trong sự thương xót vô lượng của Ngài <br/> |
Ngài đã không từ bỏ họ trong hoang mạc.<br/> | Ngài đã không từ bỏ họ trong hoang mạc.<br/> | ||
Dòng 161: | Dòng 159: | ||
Và con đường họ nên đi.<br/> | Và con đường họ nên đi.<br/> | ||
− | Ngài cũng ban Thần Linh tốt lành của Ngài để dạy dỗ họ.<br/> | + | 20. Ngài cũng ban Thần Linh tốt lành của Ngài để dạy dỗ họ.<br/> |
Và Ngài không lấy lại ma-na khỏi miệng họ <br/> | Và Ngài không lấy lại ma-na khỏi miệng họ <br/> | ||
Dòng 167: | Dòng 165: | ||
Và đã ban cho họ nước khi họ khát.<br/> | Và đã ban cho họ nước khi họ khát.<br/> | ||
− | Ngài nuôi dưỡng họ bốn mươi năm trong hoang mạc:<br/> | + | 21. Ngài nuôi dưỡng họ bốn mươi năm trong hoang mạc:<br/> |
Họ chẳng thiếu thốn gì,<br/> | Họ chẳng thiếu thốn gì,<br/> | ||
Dòng 175: | Dòng 173: | ||
Và chân họ không phù lên.<br/> | Và chân họ không phù lên.<br/> | ||
− | Hơn thế nữa, Ngài ban các nước và các vương quốc cho họ<br/> | + | 22. Hơn thế nữa, Ngài ban các nước và các vương quốc cho họ<br/> |
Và phân chia chúng thành những khu vực<br/> | Và phân chia chúng thành những khu vực<br/> | ||
Dòng 183: | Dòng 181: | ||
Và đất của Óc, vua của Ba-san.<br/> | Và đất của Óc, vua của Ba-san.<br/> | ||
− | Ngài đã làm cho dòng dõi họ đông như sao trên trời,<br/> | + | 23. Ngài đã làm cho dòng dõi họ đông như sao trên trời,<br/> |
Và đem họ vào xứ,<br/> | Và đem họ vào xứ,<br/> | ||
− | Mà Chúa đã phán với tổ phụ họ rằng:<br/> | + | Mà Chúa đã phán với tổ phụ họ rằng: <br/> |
Họ sẽ vào và chiếm lĩnh.<br/> | Họ sẽ vào và chiếm lĩnh.<br/> | ||
− | Vì vậy con cháu họ đã vào chiếm lĩnh xứ.<br/> | + | 24. Vì vậy con cháu họ đã vào chiếm lĩnh xứ.<br/> |
Ngài khiến các dân địa phương, là các dân tại Ca-na-an, khuất phục họ,<br/> | Ngài khiến các dân địa phương, là các dân tại Ca-na-an, khuất phục họ,<br/> | ||
Dòng 199: | Dòng 197: | ||
Cho họ đối xử với các dân ấy theo ý họ muốn.<br/> | Cho họ đối xử với các dân ấy theo ý họ muốn.<br/> | ||
− | Họ chiếm lấy những thành bền vững,<br/> | + | 25. Họ chiếm lấy những thành bền vững,<br/> |
Và một xứ mầu mỡ, <br/> | Và một xứ mầu mỡ, <br/> | ||
Dòng 213: | Dòng 211: | ||
Họ thỏa vui trong sự nhân từ lớn lao của Ngài.<br/> | Họ thỏa vui trong sự nhân từ lớn lao của Ngài.<br/> | ||
− | Dù vậy, họ đã không vâng lời<br/> | + | 26. Dù vậy, họ đã không vâng lời <br/> |
Và phản nghịch lại Ngài,<br/> | Và phản nghịch lại Ngài,<br/> | ||
Dòng 227: | Dòng 225: | ||
Và họ lại xúc phạm nặng nề.<br/> | Và họ lại xúc phạm nặng nề.<br/> | ||
− | Vì thế, Ngài đã trao họ vào tay những kẻ thù của họ,<br/> | + | 27. Vì thế, Ngài đã trao họ vào tay những kẻ thù của họ, <br/> |
Chúng hà hiếp họ.<br/> | Chúng hà hiếp họ.<br/> | ||
Dòng 237: | Dòng 235: | ||
Từ trời, Ngài đã lắng nghe<br/> | Từ trời, Ngài đã lắng nghe<br/> | ||
− | Theo lòng nhân từ lớn lao của Ngài,<br/> | + | Theo lòng nhân từ lớn lao của Ngài, <br/> |
Ngài đã ban cho họ những vị cứu tinh để giải cứu họ<br/> | Ngài đã ban cho họ những vị cứu tinh để giải cứu họ<br/> | ||
Dòng 243: | Dòng 241: | ||
Khỏi tay những kẻ thù của mình.<br/> | Khỏi tay những kẻ thù của mình.<br/> | ||
− | Nhưng sau khi họ được an ổn<br/> | + | 28. Nhưng sau khi họ được an ổn<br/> |
Họ lại làm điều ác trước mặt Ngài.<br/> | Họ lại làm điều ác trước mặt Ngài.<br/> | ||
Dòng 257: | Dòng 255: | ||
Và nhiều lần Ngài đã giải cứu họ theo sự thương xót của Ngài.<br/> | Và nhiều lần Ngài đã giải cứu họ theo sự thương xót của Ngài.<br/> | ||
− | Và đã cảnh cáo họ,<br/> | + | 29. Và đã cảnh cáo họ,<br/> |
Để Ngài đem họ trở về với luật pháp của Ngài.<br/> | Để Ngài đem họ trở về với luật pháp của Ngài.<br/> | ||
Dòng 271: | Dòng 269: | ||
Họ nhún vai, cứng cổ, và không chịu lắng nghe.<br/> | Họ nhún vai, cứng cổ, và không chịu lắng nghe.<br/> | ||
− | Nhưng Ngài đã kiên nhẫn với họ nhiều năm,<br/> | + | 30. Nhưng Ngài đã kiên nhẫn với họ nhiều năm,<br/> |
Dùng Thần Linh qua các tiên tri của Ngài để cảnh cáo họ.<br/> | Dùng Thần Linh qua các tiên tri của Ngài để cảnh cáo họ.<br/> | ||
Dòng 279: | Dòng 277: | ||
Vì vậy, Ngài đã ban họ vào trong tay các dân tộc ở trong xứ.<br/> | Vì vậy, Ngài đã ban họ vào trong tay các dân tộc ở trong xứ.<br/> | ||
− | Dầu vậy, trong sự thương xót lớn lao của Ngài,<br/> | + | 31. Dầu vậy, trong sự thương xót lớn lao của Ngài,<br/> |
Ngài đã không tận diệt họ và cũng không từ bỏ họ.<br/> | Ngài đã không tận diệt họ và cũng không từ bỏ họ.<br/> | ||
Dòng 285: | Dòng 283: | ||
Bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ.<br/> | Bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ.<br/> | ||
− | Vì vậy bây giờ, Đức Chúa Trời của chúng con, <br/> | + | 32. Vì vậy bây giờ, Đức Chúa Trời của chúng con, <br/> |
Là Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng kính sợ,<br/> | Là Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng kính sợ,<br/> | ||
Dòng 299: | Dòng 297: | ||
Và trên tất cả dân của Ngài từ thời các vua A-si-ri cho đến ngày nay.<br/> | Và trên tất cả dân của Ngài từ thời các vua A-si-ri cho đến ngày nay.<br/> | ||
− | Dầu vậy, trong mọi việc đã xảy đến cho chúng con, Ngài vẫn công chính;<br/> | + | 33. Dầu vậy, trong mọi việc đã xảy đến cho chúng con, Ngài vẫn công chính;<br/> |
Bởi vì Ngài đã đối xử cách thành tín,<br/> | Bởi vì Ngài đã đối xử cách thành tín,<br/> | ||
Dòng 305: | Dòng 303: | ||
Còn chúng con đã hành động gian ác.<br/> | Còn chúng con đã hành động gian ác.<br/> | ||
− | Các vua, các quan chức, các thầy tế lễ và tổ phụ của chúng con<br/> | + | 34. Các vua, các quan chức, các thầy tế lễ và tổ phụ của chúng con<br/> |
Đã không gìn giữ luật pháp của Ngài,<br/> | Đã không gìn giữ luật pháp của Ngài,<br/> | ||
Dòng 311: | Dòng 309: | ||
Cũng chẳng vâng theo những điều răn và những lời cảnh cáo mà Ngài đã phán với họ.<br/> | Cũng chẳng vâng theo những điều răn và những lời cảnh cáo mà Ngài đã phán với họ.<br/> | ||
− | Bởi vì họ đã không phục vụ Ngài lúc còn trong vương quốc của mình,<br/> | + | 35. Bởi vì họ đã không phục vụ Ngài lúc còn trong vương quốc của mình,<br/> |
Cũng không phục vụ Ngài trong khi Ngài ban biết bao điều tốt lành cho họ,<br/> | Cũng không phục vụ Ngài trong khi Ngài ban biết bao điều tốt lành cho họ,<br/> | ||
− | Cũng không phục vụ Ngài khi Ngài đặt để trước họ trong một xứ sở rộng lớn và giàu có,<br/> | + | Cũng không phục vụ Ngài khi Ngài đặt để trước họ trong một xứ sở rộng lớn và giàu có, <br/> |
và họ cũng không từ bỏ những việc gian ác của họ.<br/> | và họ cũng không từ bỏ những việc gian ác của họ.<br/> | ||
− | Cho nên, bây giờ chúng con là những kẻ nô lệ,<br/> | + | 36. Cho nên, bây giờ chúng con là những kẻ nô lệ,<br/> |
Ngay trong đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng con,<br/> | Ngay trong đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng con,<br/> | ||
Dòng 327: | Dòng 325: | ||
Giờ đây chúng con là những kẻ nô lệ tại đó.<br/> | Giờ đây chúng con là những kẻ nô lệ tại đó.<br/> | ||
− | Bởi vì tội lỗi của chúng con, hoa lợi dư dật sản sinh đã thuộc về các vua, <br/> | + | 37. Bởi vì tội lỗi của chúng con, hoa lợi dư dật sản sinh đã thuộc về các vua, <br/> |
Mà Ngài đã lập trên chúng con.<br/> | Mà Ngài đã lập trên chúng con.<br/> | ||
Dòng 337: | Dòng 335: | ||
Và chúng con đang bị hoạn nạn lớn.<br/> | Và chúng con đang bị hoạn nạn lớn.<br/> | ||
− | Vì tất cả điều nầy, chúng con quyết định viết giao ước chắc chắn nầy;<br/> | + | 38. Vì tất cả điều nầy, chúng con quyết định viết giao ước chắc chắn nầy; <br/> |
Các quan chức, những người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng con đóng ấn vào đó.” <br/> | Các quan chức, những người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng con đóng ấn vào đó.” <br/> | ||
− | ==Bản Dịch | + | ==Bản Dịch Đại Chúng== |
'''Lời Xưng Tội Của Quốc Gia''' | '''Lời Xưng Tội Của Quốc Gia''' | ||
− | + | Vào ngày hai mươi bốn của tháng nầy, dân Y-sơ-ra-ên họp lại kiêng ăn, mặc vải thô, và rải bụi đất trên đầu. Những người thuộc dòng giống Y-sơ-ra-ên đã tự tách biệt họ khỏi tất cả những người ngoại quốc; họ đã đứng dậy xưng tội của mình và những gian ác của tổ phụ mình. Họ đứng tại chỗ và đọc sách luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời trong một phần tư ngày, và một phần tư ngày khác họ xưng tội và thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình. | |
+ | |||
+ | Sau đó, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni và Kê-na-ni đứng trên bục dành cho những người Lê-vi, và khẩn cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia và Phê-ta-hia nói: | ||
− | + | “Hãy đứng lên chúc tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh chị em, là Đấng vĩnh hằng!<br/> | |
− | + | Chúc tụng danh vinh quang của Ngài,<br/> | |
Là danh vượt lên trên mọi lời chúc tụng và ngợi ca.<br/> | Là danh vượt lên trên mọi lời chúc tụng và ngợi ca.<br/> | ||
− | + | Duy chỉ một mình Ngài là Đức Giê-hô-va;<br/> | |
− | Ngài đã dựng nên bầu trời, <br/> | + | Ngài đã dựng nên bầu trời,<br/> |
− | Và trời của các tầng trời, <br/> | + | Và trời của các tầng trời,<br/> |
Cùng toàn thể thiên binh,<br/> | Cùng toàn thể thiên binh,<br/> | ||
Dòng 369: | Dòng 369: | ||
Các thiên binh thờ phượng Ngài.<br/> | Các thiên binh thờ phượng Ngài.<br/> | ||
− | + | Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời,<br/> | |
Đấng đã chọn Áp-ram, <br/> | Đấng đã chọn Áp-ram, <br/> | ||
− | Và đã đem ông ra khỏi xứ U-rơ của những người Canh-đê, <br/> | + | Và đã đem ông ra khỏi xứ U-rơ của những người Canh-đê,<br/> |
Và đã ban cho ông tên Áp-ra-ham.<br/> | Và đã ban cho ông tên Áp-ra-ham.<br/> | ||
− | + | Ngài thấy lòng trung tín của ông trước mặt Ngài,<br/> | |
Và đã lập một giao ước với ông, <br/> | Và đã lập một giao ước với ông, <br/> | ||
Dòng 385: | Dòng 385: | ||
Dân Hê-tít, dân A-mô-rít, <br/> | Dân Hê-tít, dân A-mô-rít, <br/> | ||
− | Dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, <br/> | + | Dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít,<br/> |
Và dân Ghi-rê-ga-sít <br/> | Và dân Ghi-rê-ga-sít <br/> | ||
− | Ban điều đó cho dòng dõi của ông; <br/> | + | Ban điều đó cho dòng dõi của ông;<br/> |
Ngài đã thực hiện lời của Ngài <br/> | Ngài đã thực hiện lời của Ngài <br/> | ||
Dòng 395: | Dòng 395: | ||
Bởi vì Ngài là công chính.<br/> | Bởi vì Ngài là công chính.<br/> | ||
− | + | Ngài đã thấy nỗi khốn khổ của tổ phụ chúng con tại Ai Cập,<br/> | |
Và nghe tiếng kêu cầu của họ bên Biển Đỏ,<br/> | Và nghe tiếng kêu cầu của họ bên Biển Đỏ,<br/> | ||
− | + | Ngài đã thực hiện những dấu hiệu và những việc diệu kỳ để chống lại Pha-ra-ôn,<br/> | |
Chống lại những quần thần của ông,<br/> | Chống lại những quần thần của ông,<br/> | ||
Dòng 409: | Dòng 409: | ||
Vì vậy, Ngài đã làm vinh hiển danh của Ngài như ngày nay.<br/> | Vì vậy, Ngài đã làm vinh hiển danh của Ngài như ngày nay.<br/> | ||
− | + | Chúa đã phân rẽ biển trước mặt họ<br/> | |
Để họ đi qua giữa biển trên đất khô.<br/> | Để họ đi qua giữa biển trên đất khô.<br/> | ||
Dòng 417: | Dòng 417: | ||
Như một tảng đá rơi vào những dòng nước mạnh.<br/> | Như một tảng đá rơi vào những dòng nước mạnh.<br/> | ||
− | + | Ngài còn dẫn dắt họ ban ngày bằng trụ mây<br/> | |
Và ban đêm bằng trụ lửa <br/> | Và ban đêm bằng trụ lửa <br/> | ||
− | Để ban ánh sáng cho họ trên con đường <br/> | + | Để ban ánh sáng cho họ trên con đường<br/> |
Mà họ phải trải qua.<br/> | Mà họ phải trải qua.<br/> | ||
− | + | Ngài cũng ngự xuống trên núi Si-na-i,<br/> | |
Phán với họ từ trời,<br/> | Phán với họ từ trời,<br/> | ||
Dòng 433: | Dòng 433: | ||
Những quy tắc và điều răn tốt lành.<br/> | Những quy tắc và điều răn tốt lành.<br/> | ||
− | + | Ngài khiến họ biết ngày sa-bát thánh của Ngài,<br/> | |
Và ban cho họ những điều răn, quy tắc và luật pháp,<br/> | Và ban cho họ những điều răn, quy tắc và luật pháp,<br/> | ||
Dòng 439: | Dòng 439: | ||
Qua bàn tay của Môi-se, đầy tớ Ngài.<br/> | Qua bàn tay của Môi-se, đầy tớ Ngài.<br/> | ||
− | + | Ngài ban bánh từ trời khi họ đói,<br/> | |
Và mang nước từ vầng đá khi họ khát,<br/> | Và mang nước từ vầng đá khi họ khát,<br/> | ||
Dòng 447: | Dòng 447: | ||
Mà Ngài đã hứa ban cho họ.<br/> | Mà Ngài đã hứa ban cho họ.<br/> | ||
− | + | Nhưng họ và các tổ phụ của chúng con<br/> | |
Cư xử cách kiêu ngạo và cứng cổ,<br/> | Cư xử cách kiêu ngạo và cứng cổ,<br/> | ||
Dòng 453: | Dòng 453: | ||
Không nghe theo những mạng lệnh của Ngài.<br/> | Không nghe theo những mạng lệnh của Ngài.<br/> | ||
− | + | Họ không chịu vâng lời <br/> | |
− | Và không nhớ đến những việc diệu kỳ <br/> | + | Và không nhớ đến những việc diệu kỳ<br/> |
Mà Ngài đã làm ở giữa họ,<br/> | Mà Ngài đã làm ở giữa họ,<br/> | ||
Dòng 479: | Dòng 479: | ||
Và đã không từ bỏ họ.<br/> | Và đã không từ bỏ họ.<br/> | ||
− | + | Thậm chí khi họ đúc một con bò con cho mình:<br/> | |
Và nói: ‘Đây là thần của các ngươi<br/> | Và nói: ‘Đây là thần của các ngươi<br/> | ||
Dòng 487: | Dòng 487: | ||
Và đã hành động xúc phạm nặng nề,<br/> | Và đã hành động xúc phạm nặng nề,<br/> | ||
− | + | Dầu vậy, trong sự thương xót vô lượng của Ngài<br/> | |
Ngài đã không từ bỏ họ trong hoang mạc.<br/> | Ngài đã không từ bỏ họ trong hoang mạc.<br/> | ||
Dòng 501: | Dòng 501: | ||
Và con đường họ nên đi.<br/> | Và con đường họ nên đi.<br/> | ||
− | + | Ngài cũng ban Thần Linh tốt lành của Ngài để dạy dỗ họ.<br/> | |
Và Ngài không lấy lại ma-na khỏi miệng họ <br/> | Và Ngài không lấy lại ma-na khỏi miệng họ <br/> | ||
Dòng 507: | Dòng 507: | ||
Và đã ban cho họ nước khi họ khát.<br/> | Và đã ban cho họ nước khi họ khát.<br/> | ||
− | + | Ngài nuôi dưỡng họ bốn mươi năm trong hoang mạc:<br/> | |
Họ chẳng thiếu thốn gì,<br/> | Họ chẳng thiếu thốn gì,<br/> | ||
Dòng 515: | Dòng 515: | ||
Và chân họ không phù lên.<br/> | Và chân họ không phù lên.<br/> | ||
− | + | Hơn thế nữa, Ngài ban các nước và các vương quốc cho họ<br/> | |
Và phân chia chúng thành những khu vực<br/> | Và phân chia chúng thành những khu vực<br/> | ||
Dòng 523: | Dòng 523: | ||
Và đất của Óc, vua của Ba-san.<br/> | Và đất của Óc, vua của Ba-san.<br/> | ||
− | + | Ngài đã làm cho dòng dõi họ đông như sao trên trời,<br/> | |
Và đem họ vào xứ,<br/> | Và đem họ vào xứ,<br/> | ||
− | Mà Chúa đã phán với tổ phụ họ rằng: <br/> | + | Mà Chúa đã phán với tổ phụ họ rằng:<br/> |
Họ sẽ vào và chiếm lĩnh.<br/> | Họ sẽ vào và chiếm lĩnh.<br/> | ||
− | + | Vì vậy con cháu họ đã vào chiếm lĩnh xứ.<br/> | |
Ngài khiến các dân địa phương, là các dân tại Ca-na-an, khuất phục họ,<br/> | Ngài khiến các dân địa phương, là các dân tại Ca-na-an, khuất phục họ,<br/> | ||
Dòng 539: | Dòng 539: | ||
Cho họ đối xử với các dân ấy theo ý họ muốn.<br/> | Cho họ đối xử với các dân ấy theo ý họ muốn.<br/> | ||
− | + | Họ chiếm lấy những thành bền vững,<br/> | |
Và một xứ mầu mỡ, <br/> | Và một xứ mầu mỡ, <br/> | ||
Dòng 553: | Dòng 553: | ||
Họ thỏa vui trong sự nhân từ lớn lao của Ngài.<br/> | Họ thỏa vui trong sự nhân từ lớn lao của Ngài.<br/> | ||
− | + | Dù vậy, họ đã không vâng lời<br/> | |
Và phản nghịch lại Ngài,<br/> | Và phản nghịch lại Ngài,<br/> | ||
Dòng 567: | Dòng 567: | ||
Và họ lại xúc phạm nặng nề.<br/> | Và họ lại xúc phạm nặng nề.<br/> | ||
− | + | Vì thế, Ngài đã trao họ vào tay những kẻ thù của họ,<br/> | |
Chúng hà hiếp họ.<br/> | Chúng hà hiếp họ.<br/> | ||
Dòng 577: | Dòng 577: | ||
Từ trời, Ngài đã lắng nghe<br/> | Từ trời, Ngài đã lắng nghe<br/> | ||
− | Theo lòng nhân từ lớn lao của Ngài, <br/> | + | Theo lòng nhân từ lớn lao của Ngài,<br/> |
Ngài đã ban cho họ những vị cứu tinh để giải cứu họ<br/> | Ngài đã ban cho họ những vị cứu tinh để giải cứu họ<br/> | ||
Dòng 583: | Dòng 583: | ||
Khỏi tay những kẻ thù của mình.<br/> | Khỏi tay những kẻ thù của mình.<br/> | ||
− | + | Nhưng sau khi họ được an ổn<br/> | |
Họ lại làm điều ác trước mặt Ngài.<br/> | Họ lại làm điều ác trước mặt Ngài.<br/> | ||
Dòng 597: | Dòng 597: | ||
Và nhiều lần Ngài đã giải cứu họ theo sự thương xót của Ngài.<br/> | Và nhiều lần Ngài đã giải cứu họ theo sự thương xót của Ngài.<br/> | ||
− | + | Và đã cảnh cáo họ,<br/> | |
Để Ngài đem họ trở về với luật pháp của Ngài.<br/> | Để Ngài đem họ trở về với luật pháp của Ngài.<br/> | ||
Dòng 611: | Dòng 611: | ||
Họ nhún vai, cứng cổ, và không chịu lắng nghe.<br/> | Họ nhún vai, cứng cổ, và không chịu lắng nghe.<br/> | ||
− | + | Nhưng Ngài đã kiên nhẫn với họ nhiều năm,<br/> | |
Dùng Thần Linh qua các tiên tri của Ngài để cảnh cáo họ.<br/> | Dùng Thần Linh qua các tiên tri của Ngài để cảnh cáo họ.<br/> | ||
Dòng 619: | Dòng 619: | ||
Vì vậy, Ngài đã ban họ vào trong tay các dân tộc ở trong xứ.<br/> | Vì vậy, Ngài đã ban họ vào trong tay các dân tộc ở trong xứ.<br/> | ||
− | + | Dầu vậy, trong sự thương xót lớn lao của Ngài,<br/> | |
Ngài đã không tận diệt họ và cũng không từ bỏ họ.<br/> | Ngài đã không tận diệt họ và cũng không từ bỏ họ.<br/> | ||
Dòng 625: | Dòng 625: | ||
Bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ.<br/> | Bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ.<br/> | ||
− | + | Vì vậy bây giờ, Đức Chúa Trời của chúng con, <br/> | |
Là Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng kính sợ,<br/> | Là Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng kính sợ,<br/> | ||
Dòng 639: | Dòng 639: | ||
Và trên tất cả dân của Ngài từ thời các vua A-si-ri cho đến ngày nay.<br/> | Và trên tất cả dân của Ngài từ thời các vua A-si-ri cho đến ngày nay.<br/> | ||
− | + | Dầu vậy, trong mọi việc đã xảy đến cho chúng con, Ngài vẫn công chính;<br/> | |
Bởi vì Ngài đã đối xử cách thành tín,<br/> | Bởi vì Ngài đã đối xử cách thành tín,<br/> | ||
Dòng 645: | Dòng 645: | ||
Còn chúng con đã hành động gian ác.<br/> | Còn chúng con đã hành động gian ác.<br/> | ||
− | + | Các vua, các quan chức, các thầy tế lễ và tổ phụ của chúng con<br/> | |
Đã không gìn giữ luật pháp của Ngài,<br/> | Đã không gìn giữ luật pháp của Ngài,<br/> | ||
Dòng 651: | Dòng 651: | ||
Cũng chẳng vâng theo những điều răn và những lời cảnh cáo mà Ngài đã phán với họ.<br/> | Cũng chẳng vâng theo những điều răn và những lời cảnh cáo mà Ngài đã phán với họ.<br/> | ||
− | + | Bởi vì họ đã không phục vụ Ngài lúc còn trong vương quốc của mình,<br/> | |
Cũng không phục vụ Ngài trong khi Ngài ban biết bao điều tốt lành cho họ,<br/> | Cũng không phục vụ Ngài trong khi Ngài ban biết bao điều tốt lành cho họ,<br/> | ||
− | Cũng không phục vụ Ngài khi Ngài đặt để trước họ trong một xứ sở rộng lớn và giàu có, <br/> | + | Cũng không phục vụ Ngài khi Ngài đặt để trước họ trong một xứ sở rộng lớn và giàu có,<br/> |
và họ cũng không từ bỏ những việc gian ác của họ.<br/> | và họ cũng không từ bỏ những việc gian ác của họ.<br/> | ||
− | + | Cho nên, bây giờ chúng con là những kẻ nô lệ,<br/> | |
Ngay trong đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng con,<br/> | Ngay trong đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng con,<br/> | ||
Dòng 667: | Dòng 667: | ||
Giờ đây chúng con là những kẻ nô lệ tại đó.<br/> | Giờ đây chúng con là những kẻ nô lệ tại đó.<br/> | ||
− | + | Bởi vì tội lỗi của chúng con, hoa lợi dư dật sản sinh đã thuộc về các vua, <br/> | |
Mà Ngài đã lập trên chúng con.<br/> | Mà Ngài đã lập trên chúng con.<br/> | ||
Dòng 677: | Dòng 677: | ||
Và chúng con đang bị hoạn nạn lớn.<br/> | Và chúng con đang bị hoạn nạn lớn.<br/> | ||
− | + | Vì tất cả điều nầy, chúng con quyết định viết giao ước chắc chắn nầy;<br/> | |
Các quan chức, những người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng con đóng ấn vào đó.” <br/> | Các quan chức, những người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng con đóng ấn vào đó.” <br/> | ||
Dòng 700: | Dòng 700: | ||
==Bản Dịch 2011== | ==Bản Dịch 2011== | ||
− | |||
'''Lễ Thờ Phượng Sám Hối''' | '''Lễ Thờ Phượng Sám Hối''' | ||
1 Vào ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân I-sơ-ra-ên họp lại với nhau để kiêng ăn, mặc vải thô, và rắc bụi đất trên đầu. 2 Dân I-sơ-ra-ên tự tách biệt họ ra khỏi mọi người thuộc các chủng tộc khác. Họ đứng dậy xưng tội của họ và tội của tổ tiên họ. 3 Họ đứng tại chỗ của họ và đọc Luật Pháp của Ðức Chúa Trời của họ trong nửa buổi, còn nửa buổi kia họ xưng tội và thờ phượng CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ. | 1 Vào ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân I-sơ-ra-ên họp lại với nhau để kiêng ăn, mặc vải thô, và rắc bụi đất trên đầu. 2 Dân I-sơ-ra-ên tự tách biệt họ ra khỏi mọi người thuộc các chủng tộc khác. Họ đứng dậy xưng tội của họ và tội của tổ tiên họ. 3 Họ đứng tại chỗ của họ và đọc Luật Pháp của Ðức Chúa Trời của họ trong nửa buổi, còn nửa buổi kia họ xưng tội và thờ phượng CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ. | ||
− | 4 Bấy giờ Ba-ni, Giê-sua, Cát-mi-ên, Sê-ba-ni-a, Bun-ni, Sê-rê-bi-a, Ba-ni, và Kê-na-ni đứng trên các bục dành cho người Lê-vi và lớn tiếng kêu cầu với CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ. 5 Kế đó những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bi-a, và Pê-tha-hi-a nói, “Hãy đứng dậy và ca ngợi CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, Ðấng hiện hữu từ vô cùng trong quá khứ cho đến vô cùng trong tương lai.” Họ nói tiếp, “Chúc tụng danh vinh hiển của Ngài. Nguyện danh Ngài trỗi cao trên mọi lời chúc tụng và tôn vinh.” | + | 4 Bấy giờ Ba-ni, Giê-sua, Cát-mi-ên, Sê-ba-ni-a, Bun-ni, Sê-rê-bi-a, Ba-ni, và Kê-na-ni đứng trên các bục dành cho người Lê-vi và lớn tiếng kêu cầu với CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ. 5 Kế đó những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bi-a, Hô-đi-a, Sê-ba-ni-a, và Pê-tha-hi-a nói, “Hãy đứng dậy và ca ngợi CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, Ðấng hiện hữu từ vô cùng trong quá khứ cho đến vô cùng trong tương lai.” Họ nói tiếp, “Chúc tụng danh vinh hiển của Ngài. Nguyện danh Ngài trỗi cao trên mọi lời chúc tụng và tôn vinh.” |
6 Bấy giờ Ê-xơ-ra nói, “Ôi, chỉ một mình Ngài là CHÚA, Ðấng có một không hai. Chính Ngài đã dựng nên các từng trời và trời của các từng trời, cùng toàn thể thiên binh; Ngài đã dựng nên trái đất và mọi vật trên đất, biển và mọi vật trong biển. Chính Ngài ban sự sống cho muôn loài vạn vật. Toàn thể thiên binh thiên sứ đều sấp mình xuống thờ phượng Ngài. | 6 Bấy giờ Ê-xơ-ra nói, “Ôi, chỉ một mình Ngài là CHÚA, Ðấng có một không hai. Chính Ngài đã dựng nên các từng trời và trời của các từng trời, cùng toàn thể thiên binh; Ngài đã dựng nên trái đất và mọi vật trên đất, biển và mọi vật trong biển. Chính Ngài ban sự sống cho muôn loài vạn vật. Toàn thể thiên binh thiên sứ đều sấp mình xuống thờ phượng Ngài. | ||
− | 7 Ngài là CHÚA, Ðức Chúa Trời, Ðấng đã chọn Áp-ram và đem ông ra khỏi U-rơ của người Canh-đê, và ban cho ông tên Áp-ra-ham. 8 Ngài đã thấy lòng ông trung thành với Ngài, nên đã lập với ông một giao ước, ban cho dòng dõi ông đất của dân Ca-na-an, dân | + | 7 Ngài là CHÚA, Ðức Chúa Trời, Ðấng đã chọn Áp-ram và đem ông ra khỏi U-rơ của người Canh-đê, và ban cho ông tên Áp-ra-ham. 8 Ngài đã thấy lòng ông trung thành với Ngài, nên đã lập với ông một giao ước, ban cho dòng dõi ông đất của dân Ca-na-an, dân Hít-ti, dân A-mô-ri, dân Pê-ri-xi, dân Giê-bu-si, và dân Ghi-ga-si. Ngài đã giữ những lời hứa của Ngài, vì Ngài là Ðấng công chính. |
9 Ngài đã nhìn thấy cảnh khốn cùng của tổ tiên chúng con ở Ai-cập; Ngài đã nghe tiếng khóc than của họ bên bờ Hồng Hải. 10 Ngài đã sai các phép lạ và các dấu kỳ của Ngài đến đối phó với Pha-ra-ôn, với bầy tôi của vua ấy, và với toàn dân trong xứ đó, vì Ngài biết rõ dân Ai-cập đã đối xử với họ cách hống hách như thế nào. Ngài đã làm cho danh Ngài được lừng lẫy cho đến ngày nay. 11 Ngài đã rẽ biển ra trước mặt họ, để họ có thể đi qua giữa lòng biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo họ, Ngài quăng chúng vào vực thẳm như một cục đá bị ném vào dòng nước mạnh. 12 Ngoài ra Ngài đã dẫn đưa họ ban ngày bằng một trụ mây và ban đêm bằng một trụ lửa để soi sáng cho họ trên con đường họ phải đi qua. | 9 Ngài đã nhìn thấy cảnh khốn cùng của tổ tiên chúng con ở Ai-cập; Ngài đã nghe tiếng khóc than của họ bên bờ Hồng Hải. 10 Ngài đã sai các phép lạ và các dấu kỳ của Ngài đến đối phó với Pha-ra-ôn, với bầy tôi của vua ấy, và với toàn dân trong xứ đó, vì Ngài biết rõ dân Ai-cập đã đối xử với họ cách hống hách như thế nào. Ngài đã làm cho danh Ngài được lừng lẫy cho đến ngày nay. 11 Ngài đã rẽ biển ra trước mặt họ, để họ có thể đi qua giữa lòng biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo họ, Ngài quăng chúng vào vực thẳm như một cục đá bị ném vào dòng nước mạnh. 12 Ngoài ra Ngài đã dẫn đưa họ ban ngày bằng một trụ mây và ban đêm bằng một trụ lửa để soi sáng cho họ trên con đường họ phải đi qua. |
Bản hiện tại lúc 13:58, ngày 23 tháng 6 năm 2023
Mục lục
Bản Dịch Việt Ngữ
Lời Xưng Tội Của Quốc Gia
1. Vào ngày hai mươi bốn của tháng nầy, dân Y-sơ-ra-ên họp lại kiêng ăn, mặc vải thô, và rải bụi đất trên đầu. 2. Những người thuộc dòng giống Y-sơ-ra-ên đã tự tách biệt họ khỏi tất cả những người ngoại quốc; họ đã đứng dậy xưng tội của mình và những gian ác của tổ phụ mình. 3. Họ đứng tại chỗ và đọc sách luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời trong một phần tư ngày, và một phần tư ngày khác họ xưng tội và thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình.
4. Sau đó, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni và Kê-na-ni đứng trên bục dành cho những người Lê-vi, và kêu cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. 5. Những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia và Phê-ta-hia nói: Hãy đứng lên chúc tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh chị em, là Đấng vĩnh hằng!
"Chúc tụng danh vinh quang của Ngài,
Là danh vượt lên trên mọi lời chúc tụng và ngợi ca.
6. Duy chỉ một mình Ngài là Đức Giê-hô-va;
Ngài đã dựng nên bầu trời,
Và trời của các tầng trời,
Cùng toàn thể thiên binh,
Đất và mọi vật trên đất,
Các đại dương và mọi vật trong đó.
Ngài bảo tồn tất cả các vật ấy.
Các thiên binh thờ phượng Ngài.
7. Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời,
Đấng đã chọn Áp-ram,
Và đã đem ông ra khỏi xứ U-rơ của những người Canh-đê,
Và đã ban cho ông tên Áp-ra-ham.
8. Ngài thấy lòng trung tín của ông trước mặt Ngài,
Và đã lập một giao ước với ông,
Ban đất đai của dân Ca-na-an,
Dân Hê-tít, dân A-mô-rít,
Dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít,
Và dân Ghi-rê-ga-sít
Ban điều đó cho dòng dõi của ông;
Ngài đã thực hiện lời của Ngài
Bởi vì Ngài là công chính.
9. Ngài đã thấy nỗi khốn khổ của tổ phụ chúng con tại Ai-cập,
Và nghe tiếng kêu cầu của họ bên Biển Đỏ,
10. Ngài đã thực hiện những dấu hiệu và những việc diệu kỳ để chống lại Pha-ra-ôn,
Chống lại những quần thần của ông,
Và chống lại toàn dân trong đất nước của ông,
Bởi vì Ngài biết họ đã đối đãi với tổ phụ chúng con một cách kiêu ngạo.
Vì vậy, Ngài đã làm vinh hiển danh của Ngài như ngày nay.
11. Chúa đã phân rẽ biển trước mặt họ
Để họ đi qua giữa biển trên đất khô.
Còn những kẻ đuổi theo, Ngài ném chúng dưới vực sâu
Như một tảng đá rơi vào những dòng nước mạnh.
12. Ngài còn dẫn dắt họ ban ngày bằng trụ mây
Và ban đêm bằng trụ lửa
Để ban ánh sáng cho họ trên con đường
Mà họ phải trải qua.
13. Ngài cũng ngự xuống trên núi Si-nai,
Phán với họ từ trời,
Ban những quy định và luật lệ chân chính,
Những quy tắc và điều răn tốt lành.
14. Ngài khiến họ biết ngày sa-bát thánh của Ngài,
Và ban cho họ những điều răn, quy tắc và luật pháp,
Qua bàn tay của Môi-se, đầy tớ Ngài.
15. Ngài ban bánh từ trời khi họ đói,
Và mang nước từ vầng đá khi họ khát,
Và đã truyền cho họ vào nhận lấy đất
Mà Ngài đã hứa ban cho họ.
16. Nhưng họ và các tổ phụ của chúng con
Cư xử cách kiêu ngạo và cứng cổ,
Không nghe theo những mạng lệnh của Ngài.
17. Họ không chịu vâng lời
Và không nhớ đến những việc diệu kỳ
Mà Ngài đã làm ở giữa họ,
Nhưng họ đã cứng cổ mình
Và trong lúc nổi loạn,
Họ chọn một lãnh đạo
Để quay về kiếp nô lệ của mình.
Nhưng Ngài là Đức Chúa Trời
Sẵn lòng tha thứ,
Khoan dung và thương xót,
Chậm nóng giận
Đầy nhân từ.
Và đã không từ bỏ họ.
18. Thậm chí khi họ đúc một con bò con cho mình:
Và nói: ‘Đây là thần của các ngươi
Đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai Cập’
Và đã hành động xúc phạm nặng nề,
19. Dầu vậy, trong sự thương xót vô lượng của Ngài
Ngài đã không từ bỏ họ trong hoang mạc.
Trụ mây không lìa khỏi họ ban ngày,
Để dẫn họ trên đường
Trụ lửa trong ban đêm
Không ngừng soi sáng họ,
Và con đường họ nên đi.
20. Ngài cũng ban Thần Linh tốt lành của Ngài để dạy dỗ họ.
Và Ngài không lấy lại ma-na khỏi miệng họ
Và đã ban cho họ nước khi họ khát.
21. Ngài nuôi dưỡng họ bốn mươi năm trong hoang mạc:
Họ chẳng thiếu thốn gì,
Quần áo họ không mòn
Và chân họ không phù lên.
22. Hơn thế nữa, Ngài ban các nước và các vương quốc cho họ
Và phân chia chúng thành những khu vực
Họ chiếm đất của Si-hôn, vua của Hết-bôn,
Và đất của Óc, vua của Ba-san.
23. Ngài đã làm cho dòng dõi họ đông như sao trên trời,
Và đem họ vào xứ,
Mà Chúa đã phán với tổ phụ họ rằng:
Họ sẽ vào và chiếm lĩnh.
24. Vì vậy con cháu họ đã vào chiếm lĩnh xứ.
Ngài khiến các dân địa phương, là các dân tại Ca-na-an, khuất phục họ,
Trao các xứ đó, vua của chúng, và dân của xứ vào tay họ,
Cho họ đối xử với các dân ấy theo ý họ muốn.
25. Họ chiếm lấy những thành bền vững,
Và một xứ mầu mỡ,
Rồi sở hữu những căn nhà đầy các vật tốt lành,
Những giếng nước đào sẵn,
Những vườn nho, vườn ô-liu và cây trái rất nhiều.
Họ ăn no nê và trở nên béo tốt;
Họ thỏa vui trong sự nhân từ lớn lao của Ngài.
26. Dù vậy, họ đã không vâng lời
Và phản nghịch lại Ngài,
Ném bỏ luật pháp của Ngài sau lưng họ,
Giết các nhà tiên tri của Ngài,
Là những người đã khuyến cáo họ,
Để khiến họ quay về với Ngài,
Và họ lại xúc phạm nặng nề.
27. Vì thế, Ngài đã trao họ vào tay những kẻ thù của họ,
Chúng hà hiếp họ.
Trong cơn hoạn nạn của mình,
Khi họ kêu cầu cùng Ngài.
Từ trời, Ngài đã lắng nghe
Theo lòng nhân từ lớn lao của Ngài,
Ngài đã ban cho họ những vị cứu tinh để giải cứu họ
Khỏi tay những kẻ thù của mình.
28. Nhưng sau khi họ được an ổn
Họ lại làm điều ác trước mặt Ngài.
Vì vậy, Ngài đã bỏ mặc họ vào tay của những kẻ thù của họ,
Để chúng thống trị trên họ,
Nhưng khi họ trở lại, kêu cầu cùng Ngài,
Từ trời, Ngài đã lắng nghe
Và nhiều lần Ngài đã giải cứu họ theo sự thương xót của Ngài.
29. Và đã cảnh cáo họ,
Để Ngài đem họ trở về với luật pháp của Ngài.
Tuy nhiên họ đã cư xử cách ngạo mạn,
Không vâng theo những điều răn của Ngài:
Mà nếu ai vâng theo, người đó sẽ được sống!
Nhưng đã phạm tội chống nghịch lại những sự phán xét của Ngài,
Họ nhún vai, cứng cổ, và không chịu lắng nghe.
30. Nhưng Ngài đã kiên nhẫn với họ nhiều năm,
Dùng Thần Linh qua các tiên tri của Ngài để cảnh cáo họ.
Nhưng họ không lắng nghe
Vì vậy, Ngài đã ban họ vào trong tay các dân tộc ở trong xứ.
31. Dầu vậy, trong sự thương xót lớn lao của Ngài,
Ngài đã không tận diệt họ và cũng không từ bỏ họ.
Bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ.
32. Vì vậy bây giờ, Đức Chúa Trời của chúng con,
Là Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng kính sợ,
Là Đấng giữ giao ước và lòng nhân từ,
Xin đừng xem tất cả sự khốn khổ là nhỏ mọn trước mặt Ngài,
Là điều đã giáng trên chúng con,
Trên các vua, các quan chức, các thầy tế lễ, các tiên tri, các tổ phụ chúng con,
Và trên tất cả dân của Ngài từ thời các vua A-si-ri cho đến ngày nay.
33. Dầu vậy, trong mọi việc đã xảy đến cho chúng con, Ngài vẫn công chính;
Bởi vì Ngài đã đối xử cách thành tín,
Còn chúng con đã hành động gian ác.
34. Các vua, các quan chức, các thầy tế lễ và tổ phụ của chúng con
Đã không gìn giữ luật pháp của Ngài,
Cũng chẳng vâng theo những điều răn và những lời cảnh cáo mà Ngài đã phán với họ.
35. Bởi vì họ đã không phục vụ Ngài lúc còn trong vương quốc của mình,
Cũng không phục vụ Ngài trong khi Ngài ban biết bao điều tốt lành cho họ,
Cũng không phục vụ Ngài khi Ngài đặt để trước họ trong một xứ sở rộng lớn và giàu có,
và họ cũng không từ bỏ những việc gian ác của họ.
36. Cho nên, bây giờ chúng con là những kẻ nô lệ,
Ngay trong đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng con,
Để ăn hoa quả và thổ sản tốt tươi của nó,
Giờ đây chúng con là những kẻ nô lệ tại đó.
37. Bởi vì tội lỗi của chúng con, hoa lợi dư dật sản sinh đã thuộc về các vua,
Mà Ngài đã lập trên chúng con.
Họ có quyền trên thân thể và súc vật của chúng con,
Muốn làm gì thì làm.
Và chúng con đang bị hoạn nạn lớn.
38. Vì tất cả điều nầy, chúng con quyết định viết giao ước chắc chắn nầy;
Các quan chức, những người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng con đóng ấn vào đó.”
Bản Dịch Đại Chúng
Lời Xưng Tội Của Quốc Gia
Vào ngày hai mươi bốn của tháng nầy, dân Y-sơ-ra-ên họp lại kiêng ăn, mặc vải thô, và rải bụi đất trên đầu. Những người thuộc dòng giống Y-sơ-ra-ên đã tự tách biệt họ khỏi tất cả những người ngoại quốc; họ đã đứng dậy xưng tội của mình và những gian ác của tổ phụ mình. Họ đứng tại chỗ và đọc sách luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời trong một phần tư ngày, và một phần tư ngày khác họ xưng tội và thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình.
Sau đó, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni và Kê-na-ni đứng trên bục dành cho những người Lê-vi, và khẩn cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia và Phê-ta-hia nói:
“Hãy đứng lên chúc tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh chị em, là Đấng vĩnh hằng!
Chúc tụng danh vinh quang của Ngài,
Là danh vượt lên trên mọi lời chúc tụng và ngợi ca.
Duy chỉ một mình Ngài là Đức Giê-hô-va;
Ngài đã dựng nên bầu trời,
Và trời của các tầng trời,
Cùng toàn thể thiên binh,
Đất và mọi vật trên đất,
Các đại dương và mọi vật trong đó.
Ngài bảo tồn tất cả các vật ấy.
Các thiên binh thờ phượng Ngài.
Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời,
Đấng đã chọn Áp-ram,
Và đã đem ông ra khỏi xứ U-rơ của những người Canh-đê,
Và đã ban cho ông tên Áp-ra-ham.
Ngài thấy lòng trung tín của ông trước mặt Ngài,
Và đã lập một giao ước với ông,
Ban đất đai của dân Ca-na-an,
Dân Hê-tít, dân A-mô-rít,
Dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít,
Và dân Ghi-rê-ga-sít
Ban điều đó cho dòng dõi của ông;
Ngài đã thực hiện lời của Ngài
Bởi vì Ngài là công chính.
Ngài đã thấy nỗi khốn khổ của tổ phụ chúng con tại Ai Cập,
Và nghe tiếng kêu cầu của họ bên Biển Đỏ,
Ngài đã thực hiện những dấu hiệu và những việc diệu kỳ để chống lại Pha-ra-ôn,
Chống lại những quần thần của ông,
Và chống lại toàn dân trong đất nước của ông,
Bởi vì Ngài biết họ đã đối đãi với tổ phụ chúng con một cách kiêu ngạo.
Vì vậy, Ngài đã làm vinh hiển danh của Ngài như ngày nay.
Chúa đã phân rẽ biển trước mặt họ
Để họ đi qua giữa biển trên đất khô.
Còn những kẻ đuổi theo, Ngài ném chúng dưới vực sâu
Như một tảng đá rơi vào những dòng nước mạnh.
Ngài còn dẫn dắt họ ban ngày bằng trụ mây
Và ban đêm bằng trụ lửa
Để ban ánh sáng cho họ trên con đường
Mà họ phải trải qua.
Ngài cũng ngự xuống trên núi Si-na-i,
Phán với họ từ trời,
Ban những quy định và luật lệ chân chính,
Những quy tắc và điều răn tốt lành.
Ngài khiến họ biết ngày sa-bát thánh của Ngài,
Và ban cho họ những điều răn, quy tắc và luật pháp,
Qua bàn tay của Môi-se, đầy tớ Ngài.
Ngài ban bánh từ trời khi họ đói,
Và mang nước từ vầng đá khi họ khát,
Và đã truyền cho họ vào nhận lấy đất
Mà Ngài đã hứa ban cho họ.
Nhưng họ và các tổ phụ của chúng con
Cư xử cách kiêu ngạo và cứng cổ,
Không nghe theo những mạng lệnh của Ngài.
Họ không chịu vâng lời
Và không nhớ đến những việc diệu kỳ
Mà Ngài đã làm ở giữa họ,
Nhưng họ đã cứng cổ mình
Và trong lúc nổi loạn,
Họ chọn một lãnh đạo
Để quay về kiếp nô lệ của mình.
Nhưng Ngài là Đức Chúa Trời
Sẵn lòng tha thứ,
Khoan dung và thương xót,
Chậm nóng giận
Đầy nhân từ.
Và đã không từ bỏ họ.
Thậm chí khi họ đúc một con bò con cho mình:
Và nói: ‘Đây là thần của các ngươi
Đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai Cập’
Và đã hành động xúc phạm nặng nề,
Dầu vậy, trong sự thương xót vô lượng của Ngài
Ngài đã không từ bỏ họ trong hoang mạc.
Trụ mây không lìa khỏi họ ban ngày,
Để dẫn họ trên đường
Trụ lửa trong ban đêm
Không ngừng soi sáng họ,
Và con đường họ nên đi.
Ngài cũng ban Thần Linh tốt lành của Ngài để dạy dỗ họ.
Và Ngài không lấy lại ma-na khỏi miệng họ
Và đã ban cho họ nước khi họ khát.
Ngài nuôi dưỡng họ bốn mươi năm trong hoang mạc:
Họ chẳng thiếu thốn gì,
Quần áo họ không mòn
Và chân họ không phù lên.
Hơn thế nữa, Ngài ban các nước và các vương quốc cho họ
Và phân chia chúng thành những khu vực
Họ chiếm đất của Si-hôn, vua của Hết-bôn,
Và đất của Óc, vua của Ba-san.
Ngài đã làm cho dòng dõi họ đông như sao trên trời,
Và đem họ vào xứ,
Mà Chúa đã phán với tổ phụ họ rằng:
Họ sẽ vào và chiếm lĩnh.
Vì vậy con cháu họ đã vào chiếm lĩnh xứ.
Ngài khiến các dân địa phương, là các dân tại Ca-na-an, khuất phục họ,
Trao các xứ đó, vua của chúng, và dân của xứ vào tay họ,
Cho họ đối xử với các dân ấy theo ý họ muốn.
Họ chiếm lấy những thành bền vững,
Và một xứ mầu mỡ,
Rồi sở hữu những căn nhà đầy các vật tốt lành,
Những giếng nước đào sẵn,
Những vườn nho, vườn ô-liu và cây trái rất nhiều.
Họ ăn no nê và trở nên béo tốt;
Họ thỏa vui trong sự nhân từ lớn lao của Ngài.
Dù vậy, họ đã không vâng lời
Và phản nghịch lại Ngài,
Ném bỏ luật pháp của Ngài sau lưng họ,
Giết các nhà tiên tri của Ngài,
Là những người đã khuyến cáo họ,
Để khiến họ quay về với Ngài,
Và họ lại xúc phạm nặng nề.
Vì thế, Ngài đã trao họ vào tay những kẻ thù của họ,
Chúng hà hiếp họ.
Trong cơn hoạn nạn của mình,
Khi họ kêu cầu cùng Ngài.
Từ trời, Ngài đã lắng nghe
Theo lòng nhân từ lớn lao của Ngài,
Ngài đã ban cho họ những vị cứu tinh để giải cứu họ
Khỏi tay những kẻ thù của mình.
Nhưng sau khi họ được an ổn
Họ lại làm điều ác trước mặt Ngài.
Vì vậy, Ngài đã bỏ mặc họ vào tay của những kẻ thù của họ,
Để chúng thống trị trên họ,
Nhưng khi họ trở lại, kêu cầu cùng Ngài,
Từ trời, Ngài đã lắng nghe
Và nhiều lần Ngài đã giải cứu họ theo sự thương xót của Ngài.
Và đã cảnh cáo họ,
Để Ngài đem họ trở về với luật pháp của Ngài.
Tuy nhiên họ đã cư xử cách ngạo mạn,
Không vâng theo những điều răn của Ngài:
Mà nếu ai vâng theo, người đó sẽ được sống!
Nhưng đã phạm tội chống nghịch lại những sự phán xét của Ngài,
Họ nhún vai, cứng cổ, và không chịu lắng nghe.
Nhưng Ngài đã kiên nhẫn với họ nhiều năm,
Dùng Thần Linh qua các tiên tri của Ngài để cảnh cáo họ.
Nhưng họ không lắng nghe
Vì vậy, Ngài đã ban họ vào trong tay các dân tộc ở trong xứ.
Dầu vậy, trong sự thương xót lớn lao của Ngài,
Ngài đã không tận diệt họ và cũng không từ bỏ họ.
Bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ.
Vì vậy bây giờ, Đức Chúa Trời của chúng con,
Là Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng kính sợ,
Là Đấng giữ giao ước và lòng nhân từ,
Xin đừng xem tất cả sự khốn khổ là nhỏ mọn trước mặt Ngài,
Là điều đã giáng trên chúng con,
Trên các vua, các quan chức, các thầy tế lễ, các tiên tri, các tổ phụ chúng con,
Và trên tất cả dân của Ngài từ thời các vua A-si-ri cho đến ngày nay.
Dầu vậy, trong mọi việc đã xảy đến cho chúng con, Ngài vẫn công chính;
Bởi vì Ngài đã đối xử cách thành tín,
Còn chúng con đã hành động gian ác.
Các vua, các quan chức, các thầy tế lễ và tổ phụ của chúng con
Đã không gìn giữ luật pháp của Ngài,
Cũng chẳng vâng theo những điều răn và những lời cảnh cáo mà Ngài đã phán với họ.
Bởi vì họ đã không phục vụ Ngài lúc còn trong vương quốc của mình,
Cũng không phục vụ Ngài trong khi Ngài ban biết bao điều tốt lành cho họ,
Cũng không phục vụ Ngài khi Ngài đặt để trước họ trong một xứ sở rộng lớn và giàu có,
và họ cũng không từ bỏ những việc gian ác của họ.
Cho nên, bây giờ chúng con là những kẻ nô lệ,
Ngay trong đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng con,
Để ăn hoa quả và thổ sản tốt tươi của nó,
Giờ đây chúng con là những kẻ nô lệ tại đó.
Bởi vì tội lỗi của chúng con, hoa lợi dư dật sản sinh đã thuộc về các vua,
Mà Ngài đã lập trên chúng con.
Họ có quyền trên thân thể và súc vật của chúng con,
Muốn làm gì thì làm.
Và chúng con đang bị hoạn nạn lớn.
Vì tất cả điều nầy, chúng con quyết định viết giao ước chắc chắn nầy;
Các quan chức, những người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng con đóng ấn vào đó.”
Bản Dịch 1925
1. Ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại, cữ ăn, mặc bao và phủ bụi đất. 2. Dòng Y-sơ-ra-ên chia rẽ các người ngoại, đứng dậy xưng tội lỗi mình và sự gian ác của tổ phụ mình. 3. Chúng đứng dậy tại chỗ mình, đọc trong sách luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, lâu đến phần tư ngày: trong một phần tư khác, chúng xưng tội và thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. 4. Bấy giờ, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Kê-na-ni, đứng dậy tại trên sạp người Lê-vi, và kêu cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
5. Khi ấy những người Lê-vi, là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Phê-ta-hia nói rằng: Hãy đứng dậy, ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là Đấng hằng có đời đời kiếp kiếp! Đáng ngợi khen danh vinh hiển của Ngài, vẫn trổi cao hơn các sự chúc tụng và các lời khen ngợi. 6. Ôi! chỉ một mình Chúa là Đức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa. 7. Chúa ôi! Chúa là Giê-hô-va Đức Chúa Trời mà đã chọn Áp-ram, đem người ra khỏi U-rơ của dân Canh-đê, và ban cho người tên Áp-ra-ham. 8. Chúa thấy lòng người trung thành tại trước mặt Chúa, và Chúa lập giao ước với người, đặng ban cho dòng dõi người xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-rê-ga-sít; Chúa có làm ứng nghiệm lời của Chúa, vì Chúa là công bình.
9. Chúa có thấy sự khốn khổ của tổ phụ chúng tôi tại Ê-díp-tô, có nghe tiếng kêu la của chúng tại bên Biển đỏ, 10. làm những dấu kỳ phép lạ nơi Pha-ra-ôn, nơi đầy tớ người và nơi toàn dân sự của nước người; vì Chúa biết rằng họ có đối đãi tổ phụ chúng tôi cách kiêu căng, và Chúa có làm nổi danh Chúa như thể ngày nay. 11. Chúa có phân rẽ biển trước mặt chúng nó, để chúng nó đi ngang qua giữa biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo, Chúa bèn ném họ dưới vực sâu, như ném đá trong nước lớn. 12. Ban ngày, Chúa dẫn dắt chúng bằng một trụ mây, và ban đêm bằng một trụ lửa, để chiếu sáng cho chúng trong con đường phải đi theo. 13. Chúa cũng giáng lâm tại trên núi Si-na-i, phán với chúng từ trên trời, ban cho chúng những luật lệ ngay thẳng, pháp độ chân thật, và những qui tắc cùng điều răn tốt lành. 14. Chúa khiến cho chúng biết ngày sa-bát thánh của Chúa, cậy Môi-se, tôi tớ của Chúa, truyền cho chúng những điều răn, qui tắc, và luật pháp. 15. Từ các từng trời, Chúa ban cho chúng bánh đặng ăn đói, khiến hòn đá chảy ra nước cho chúng uống khát, phán biểu chúng vào nhận lấy xứ mà Chúa đã thề ban cho chúng.
16. Nhưng tổ phụ chúng tôi cư xử cách kiêu hãnh cứng cổ mình, không nghe các điều răn của Chúa, 17. chẳng khứng vâng theo và không nhớ đến các phép lạ mà Chúa đã làm giữa chúng; nhưng chúng cứng cổ mình, và trong sự bội nghịch mình cắt một kẻ làm đầu đặng trở về nơi nô lệ của họ. Nhưng Chúa vốn một Đức Chúa Trời sẵn tha thứ, hay làm ơn, và thương xót, chậm nóng giận, và dư đầy nhân từ, Chúa không có lìa bỏ chúng. 18. Dẫu khi chúng làm một con bò con đực, mà rằng: Nầy là thần đã dẫn các ngươi lên khỏi Ê-díp-tô, và chọc cho Chúa giận nhiều, 19. thì Chúa vì sự thương xót của Chúa, không lìa bỏ chúng trong đồng vắng; trụ mây dẫn đường ban ngày, không lìa khỏi trên chúng, hoặc trụ lửa lúc ban đêm chiếu sáng và chỉ cho chúng con đường chúng phải đi. 20. Chúa cũng ban cho chúng Thần linh lương thiện của Chúa, để dạy dỗ cho chúng, không từ chối cho miệng chúng ăn ma-na, và ban cho chúng nước đặng uống khát. 21. Phải, Chúa nuôi dưỡng chúng bốn mươi năm trong đồng vắng: chúng chẳng thiếu thốn chi cả; quần áo chúng không cũ rách, và chân chúng chẳng phù lên.
22. Vả lại, Chúa ban cho chúng những nước và dân tộc, và phân phát nước ấy cho chúng; chúng nhận được nước của Si-hôn, tức nước của vua Hết-bôn, và nước của Óc, vua Ba-san. 23. Chúa cũng thêm nhiều con cháu chúng đông như sao trên trời, đưa chúng vào xứ mà Chúa đã phán cùng tổ phụ chúng rằng chúng sẽ vào đó đặng nhận lấy xứ ấy. 24. Vậy, con cháu chúng bèn vào và nhận lấy xứ, và Chúa bắt phục trước mặt họ các dân của xứ, là dân Ca-na-an, phó dân ấy và những vua chúng nó cùng các dân tộc của xứ vào tay họ, đặng họ đãi các dân ấy theo ý mình muốn. 25. Họ chiếm lấy những thành bền vững, và ruộng đất mầu mỡ, được những nhà đầy các vật tốt lành, nhưng giếng đào, vườn nho, vườn ô-li-ve, và cây trái rất nhiều; chúng ăn, bèn được no nê, và mập béo, vui lòng trong sự nhân từ lớn lao của Chúa.
26. Dầu vậy, chúng chẳng vâng theo, bèn phản nghịch với Chúa, ném bỏ luật pháp Chúa sau lưng, giết các đấng tiên tri của Chúa, là người làm chứng nghịch cùng họ đặng đem họ trở lại cùng Chúa; song chúng lại chọc giận Chúa nhiều thay. 27. Vì vậy, Chúa phó họ vào tay cừu địch của họ; chúng nó hà hiếp họ. Trong thời hoạn nạn chúng kêu cầu cùng Chúa, thì từ các từng trời Chúa có nghe đến; theo lòng nhân từ lớn lao của Chúa, Chúa bèn ban cho những đấng giải cứu để cứu chúng khỏi tay kẻ cừu địch mình. 28. Nhưng khi chúng được an tịnh, bèn khởi làm lại điều ác trước mặt Chúa; vì vậy, Chúa bỏ chúng vào tay kẻ thù nghịch để quản hạt chúng; song khi chúng trở lại, kêu cầu cùng Chúa, thì Chúa từ trên trời nghe đến, và vì lòng thương xót Chúa, nên giải cứu chúng nhiều lần. 29. Chúa cũng làm chứng nghịch cùng chúng, để dẫn dắt chúng trở lại luật pháp của Ngài. Dầu vậy, chúng cư xử cách kiêu ngạo không nghe các điều răn Chúa, phạm đến luật lệ của Chúa, là luật lệ nếu người nào vâng làm theo, tất sẽ được sống; chúng ở chấp nhất, cứng cổ mình, và không khứng nghe theo. 30. Chúa dung thứ chúng nhiều năm và cậy Thần linh và các tiên tri của Chúa mà làm chứng nghịch cùng chúng; nhưng chúng không lắng tai nghe, nên Chúa phó chúng vào tay dân tộc của các xứ. 31. Song, vì lòng thương xót lớn lao của Chúa, Chúa không có tận diệt chúng, cũng không lìa bỏ chúng; vì Chúa vốn là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ.
32. Vậy bây giờ, hỡi Đức Chúa Trời của chúng tôi ơi! là Đức Chúa Trời rất lớn rất quyền năng và đáng sợ, hằng giữ giao ước và sự nhân từ, xin chớ coi nhỏ mọn trước mặt Chúa các việc đau đớn cực nhọc đã giáng trên chúng tôi, trên các vua và các quan trưởng, trên những thầy tế lễ và các tiên tri, trên tổ phụ chúng tôi, và trên hết thảy dân sự của Chúa, từ đời các vua A-si-ri cho đến ngày nay. 33. Trong mọi việc đã xảy đến cho chúng tôi, Chúa vẫn là công bình; vì Chúa thi hành cách chân thật, còn chúng tôi lại làm cách hung ác. 34. Các vua chúng tôi, các quan trưởng, những thầy tế lễ, và tổ phụ chúng tôi, không có gìn giữ luật pháp của Chúa, cũng chẳng nghe theo các điều răn và chứng cớ mà Chúa phán dạy nghịch cùng chúng. 35. Tại trong xứ của chúng, giữa điều ơn lành dư dật mà Chúa đã ban cho chúng, tại trong đất rộng rãi và màu mỡ mà Chúa đã đặt trước mặt chúng, chúng không phục sự Chúa, chẳng trở bỏ các công việc ác của họ. 36. Kìa, ngày nay chúng tôi làm tôi mọi; này chúng tôi làm tôi trong xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi để ăn bông trái và thổ sản tốt tươi của nó. 37. Xứ sanh ra nhiều thổ sản cho các vua mà Chúa đã lập trên chúng tôi tại cớ tội lỗi của chúng tôi: các vua ấy cũng tự ý mình lấn lướt trên thân thể chúng tôi và các súc vật của chúng tôi, và chúng tôi đang bị hoạn nạn lớn. 38. Dầu các sự này, chúng tôi lập giao ước chắc chắn, và chúng tôi ghi chép nó các quan trưởng, người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng tôi đóng ấn cho.
Bản Dịch 2011
Lễ Thờ Phượng Sám Hối
1 Vào ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân I-sơ-ra-ên họp lại với nhau để kiêng ăn, mặc vải thô, và rắc bụi đất trên đầu. 2 Dân I-sơ-ra-ên tự tách biệt họ ra khỏi mọi người thuộc các chủng tộc khác. Họ đứng dậy xưng tội của họ và tội của tổ tiên họ. 3 Họ đứng tại chỗ của họ và đọc Luật Pháp của Ðức Chúa Trời của họ trong nửa buổi, còn nửa buổi kia họ xưng tội và thờ phượng CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ.
4 Bấy giờ Ba-ni, Giê-sua, Cát-mi-ên, Sê-ba-ni-a, Bun-ni, Sê-rê-bi-a, Ba-ni, và Kê-na-ni đứng trên các bục dành cho người Lê-vi và lớn tiếng kêu cầu với CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ. 5 Kế đó những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bi-a, Hô-đi-a, Sê-ba-ni-a, và Pê-tha-hi-a nói, “Hãy đứng dậy và ca ngợi CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, Ðấng hiện hữu từ vô cùng trong quá khứ cho đến vô cùng trong tương lai.” Họ nói tiếp, “Chúc tụng danh vinh hiển của Ngài. Nguyện danh Ngài trỗi cao trên mọi lời chúc tụng và tôn vinh.”
6 Bấy giờ Ê-xơ-ra nói, “Ôi, chỉ một mình Ngài là CHÚA, Ðấng có một không hai. Chính Ngài đã dựng nên các từng trời và trời của các từng trời, cùng toàn thể thiên binh; Ngài đã dựng nên trái đất và mọi vật trên đất, biển và mọi vật trong biển. Chính Ngài ban sự sống cho muôn loài vạn vật. Toàn thể thiên binh thiên sứ đều sấp mình xuống thờ phượng Ngài.
7 Ngài là CHÚA, Ðức Chúa Trời, Ðấng đã chọn Áp-ram và đem ông ra khỏi U-rơ của người Canh-đê, và ban cho ông tên Áp-ra-ham. 8 Ngài đã thấy lòng ông trung thành với Ngài, nên đã lập với ông một giao ước, ban cho dòng dõi ông đất của dân Ca-na-an, dân Hít-ti, dân A-mô-ri, dân Pê-ri-xi, dân Giê-bu-si, và dân Ghi-ga-si. Ngài đã giữ những lời hứa của Ngài, vì Ngài là Ðấng công chính.
9 Ngài đã nhìn thấy cảnh khốn cùng của tổ tiên chúng con ở Ai-cập; Ngài đã nghe tiếng khóc than của họ bên bờ Hồng Hải. 10 Ngài đã sai các phép lạ và các dấu kỳ của Ngài đến đối phó với Pha-ra-ôn, với bầy tôi của vua ấy, và với toàn dân trong xứ đó, vì Ngài biết rõ dân Ai-cập đã đối xử với họ cách hống hách như thế nào. Ngài đã làm cho danh Ngài được lừng lẫy cho đến ngày nay. 11 Ngài đã rẽ biển ra trước mặt họ, để họ có thể đi qua giữa lòng biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo họ, Ngài quăng chúng vào vực thẳm như một cục đá bị ném vào dòng nước mạnh. 12 Ngoài ra Ngài đã dẫn đưa họ ban ngày bằng một trụ mây và ban đêm bằng một trụ lửa để soi sáng cho họ trên con đường họ phải đi qua.
13 Ngài cũng đã ngự xuống trên Núi Si-nai; từ trời Ngài đã phán dạy họ. Ngài đã ban cho họ các mạng lịnh chính trực, các luật pháp chân chính, cùng các luật lệ và các điều răn toàn hảo. 14 Ngài đã tỏ cho họ biết ngày Sa-bát thánh của Ngài, và đã ban cho họ các điều răn, luật lệ, và luật pháp của Ngài qua Môi-se tôi tớ Ngài. 15 Ðể họ khỏi đói Ngài đã ban bánh từ trời xuống cho họ ăn; để họ khỏi khát Ngài đã khiến nước ngọt từ vầng đá tuôn ra cho họ uống. Ngài đã bảo họ đi vào chiếm lấy xứ mà Ngài đã thề sẽ ban cho họ.
16 Nhưng họ, tổ tiên của chúng con, đã ngang ngược và cứng cổ; họ đã không vâng theo các điều răn của Ngài. 17 Họ đã không vâng lời và cũng không nhớ gì đến các phép lạ Ngài đã làm ở giữa họ, nhưng đã cứng cổ, và trong cơn phản loạn họ đã lập một kẻ lãnh đạo để dẫn họ trở về làm nô lệ. Nhưng Ngài là Ðức Chúa Trời sẵn lòng tha thứ, khoan dung độ lượng, thương xót, chậm giận, và đầy dẫy tình thương. Ngài đã không bỏ họ, 18 ngay cả khi họ đúc cho họ một pho tượng của một con bê và nói, ‘Ðây là thần của ngươi, đấng đã dẫn ngươi ra khỏi Ai-cập,’ và như thế họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề.
19 Dù vậy do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không bỏ họ bơ vơ trong đồng hoang. Ban ngày trụ mây dẫn đường họ vẫn không lìa khỏi họ; ban đêm trụ lửa soi sáng họ trên hành trình họ phải đi qua vẫn không rời khỏi họ. 20 Ngài đã ban Thần Linh thiện hảo của Ngài để dạy dỗ họ. Ngài đã không giữ bánh ma-na khỏi miệng họ; Ngài đã ban cho họ nước ngọt để họ không bị khát. 21 Thật vậy trong bốn mươi năm Ngài đã duy trì mạng sống họ trong đồng hoang. Họ đã chẳng thiếu thốn gì. Quần áo họ không mòn, đôi chân họ không phù.
22 Hơn thế nữa Ngài đã ban các vương quốc và các nước cho họ. Họ đã chia các nước ấy cho nhau và không chừa lại một miền nào. Họ đã chiếm lấy xứ sở của Si-hôn vua Hếch-bôn và xứ sở của Óc vua Ba-san. 23 Ngài đã làm cho dòng dõi họ đông như sao trên trời, và Ngài đã đem họ vào trong xứ mà Ngài đã bảo tổ tiên họ hãy vào và chiếm lấy. 24 Vậy con cháu họ đã vào và chiếm lấy xứ. Ngài đã bắt các dân đang ở trong xứ phải khuất phục trước mặt họ, đó là các dân Ca-na-an. Ngài đã trao vào tay họ các vua và các dân trong xứ, để họ muốn làm gì với chúng tùy ý họ. 25 Họ đã chiếm lấy những thành trì kiên cố và những vùng đất màu mỡ. Họ đã chiếm lấy những ngôi nhà chứa đầy mọi thứ tốt đẹp, những giếng nước đã đào sẵn, những vườn nho, những rẫy ô-liu, và những cây ăn trái nhiều vô kể. Vậy họ đã ăn, được no nê, và trở nên mập béo. Họ đã khoan khoái hưởng thụ mọi phước hạnh lớn lao mà Ngài ban cho.
26 Nhưng họ đã không vâng lời và đã nổi loạn chống lại Ngài. Họ đã vứt bỏ luật pháp Ngài ra sau lưng họ. Họ đã giết các tiên tri Ngài, những người đã khuyên bảo họ hãy trở về với Ngài. Họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề. 27 Vì thế Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng tha hồ áp bức họ. Tuy nhiên giữa cảnh gian lao khốn khổ họ đã kêu cầu với Ngài. Từ trời cao Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã ban cho họ những nhà giải phóng, để giải thoát họ ra khỏi tay của quân thù.
28 Nhưng vừa khi họ được nghỉ ngơi, họ lại làm những việc ác nữa trước mặt Ngài. Do đó Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng cai trị họ. Bấy giờ họ mới chịu quay về và kêu cầu với Ngài nữa. Từ trời Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Ngài đã giải cứu họ nhiều lần vì lòng thương xót của Ngài.
29 Ngài đã cảnh cáo họ phải trở lại và vâng giữ luật pháp Ngài, nhưng họ đã quá kiêu căng tự phụ và không vâng theo các điều răn Ngài. Họ cứ phạm tội và chống lại luật lệ Ngài, luật lệ mà ai vâng theo sẽ sống. Họ đã đưa ra đôi vai ương ngạnh, làm cho cổ họ ra cứng, và không chịu nghe lời Ngài. 30 Dù vậy Ngài đã nhẫn nại cưu mang họ suốt bao nhiêu năm dài. Bởi Ðức Thánh Linh Ngài, Ngài đã cảnh cáo họ về tội lỗi họ qua các vị tiên tri Ngài. Thế nhưng, họ vẫn một mực không chịu vâng lời. Do đó Ngài đã phó họ cho các dân ngoại vốn cư ngụ trong xứ. 31 Tuy nhiên do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không tuyệt diệt họ hay bỏ rơi họ, vì Ngài là Ðức Chúa Trời khoan dung độ lượng và giàu lòng thương xót.
32 Vậy bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của chúng con, Ðức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng sợ, Ðấng luôn giữ giao ước yêu thương vô tận của Ngài, xin đừng xem tất cả những khó khăn chúng con đang gánh chịu như một việc nhỏ trước mặt Ngài. Hoạn nạn lớn đã giáng trên chúng con, trên các vua, các quan, các tư tế, các tiên tri, các tổ tiên, và tất cả dân của chúng con từ ngày các vua A-sy-ri đánh bại chúng con đến ngày nay. 33 Ngài luôn luôn công chính mỗi khi chúng con bị đoán phạt, vì Ngài đã đối xử với chúng con cách thành tín, còn chúng con thì cứ hành động cách gian tà đối với Ngài. 34 Không có vua nào, quan nào, tư tế nào, hay tổ tiên nào của chúng con vâng giữ luật pháp Ngài hoặc làm theo các điều răn Ngài hoặc quan tâm đến những lời cảnh cáo của Ngài đối với họ. 35 Ngược lại khi còn nắm giữ quyền hành trong vương quốc của họ, họ đã không thờ phượng Ngài. Họ đã hưởng biết bao phước hạnh lớn lao trong đất nước phì nhiêu và rộng lớn Ngài đã ban cho họ, nhưng họ không thờ phượng Ngài và cũng không lìa bỏ những việc làm xấu xa gian tà của họ. 36 Cho nên giờ đây chúng con phải trở thành những kẻ nô lệ; chúng con làm nô lệ ngay trên đất nước Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con để họ và con cháu họ có thể hưởng những hoa quả dẫy đầy và của cải nhiều vô kể. Xin Ngài xem, chúng con đang làm những kẻ nô lệ! 37 Vì cớ những tội lỗi của chúng con, các hoa lợi làm ra trên đất nước này đều phải đem nộp cho các vua ngoại bang mà Ngài đã lập lên cai trị chúng con. Họ có quyền trên thân thể chúng con; còn súc vật của chúng con họ muốn lấy lúc nào thì lấy. Chúng con thật đang ở giữa một cơn hoạn nạn lớn.”
Danh Sách Những Người Ký Giao Ước
38 Vì tất cả những lẽ đó, chúng tôi đồng lòng với nhau lập một giao ước nghiêm túc và ghi rõ xuống trên giấy trắng mực đen. Trong văn kiện được đóng ấn ấy có tên những người lãnh đạo, những người Lê-vi, và các vị tư tế.
Tài Liệu Nghiên Cứu Kinh Thánh
- Khái Quát Nội Dung: Nê-hê-mi Chương 9 - Thru The Bible
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành