Khác biệt giữa các bản “II Các Vua: Chương 25”

Từ Thư Viện Tin Lành
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm
(Update Ban Dich 2011)
 
(Không hiển thị 7 phiên bản của 2 người dùng ở giữa)
Dòng 1: Dòng 1:
==Bản Dịch 1926==
+
==Bản Dịch 1925==
  
1. Vua bèn sai người nhóm hiệp hết thảy những trưởng lão Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
+
1. Năm thứ chín đời Sê-đê-kia, ngày mồng một tháng mười, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, cùng cả đạo quân người, đến hãm đánh Giê-ru-sa-lem. Người hạ trại trước thành, và đắp lũy vây chung quanh thành. 2.  Sự vây thành lâu dài cho đến năm thứ mười một đời Sê-đê-kia.  
  
2. Đoạn, vua đi lên đền thờ Đức Giê-hô-va, có hết thảy người Giu-đa, cả dân cư Giê-ru-sa-lem, những thầy tế lễ, đấng tiên tri, cùng cả dân sự, vô luận nhỏ lớn, đều đi theo người. Người đọc cho chúng nghe các lời của sách giao ước, mà người ta đã tìm được trong đền thờ của Đức Giê-hô-va.
+
3. Ngày mồng chín tháng tư, có sự đói kém lớn trong thành, dân sự không có bánh. 4.  Bấy giờ, quân Canh-đê làm lủng một lỗ nơi vách tường thành; đoạn hết thảy quân lính đang ban đêm đều chạy trốn bởi cửa ở giữa hai vách thành gần vườn vua. Đương khi quân Canh-đê vây thành, thì vua chạy trốn theo đường đồng bằng. 5.  Đạo quân Canh-đê bèn đuổi theo vua, và theo kịp người tại trong đồng bằng Giê-ri-cô; cả cơ binh người đều tản lạc và bỏ người. 6.  Quân Canh-đê bắt vua, dẫn đến vua Ba-by-lôn ở Ríp-la; tại đó chúng nó xét đoán người. 7.  Chúng nó giết các con trai Sê-đê-kia trước mặt người; đoạn, chúng nó móc mắt Sê-đê-kia xiềng người bằng xích đồng, rồi dẫn người đến Ba-by-lôn. 8.  Ngày mồng bảy tháng năm, năm thứ mười chín đời Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan, tôi tớ của vua Ba-by-lôn, đến Giê-ru-sa-lem. 9.  Người thiêu đốt đền thờ Đức Giê-hô-va, cung của vua, và mọi nhà trong thành Giê-ru-sa-lem; thiêu đốt luôn các nhà của người sang trọng. 10.  Đoạn, đạo quân Canh-đê, vâng lịnh quan thị vệ, phá đổ vách thành chung quanh Giê-ru-sa-lem. 11.  Quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan bắt dân cư còn sót lại trong thành, luôn với những kẻ hàng đầu vua Ba-by-lôn và đám dân còn lại khác, mà dẫn đi làm phu tù. 12.  Quan thị vệ chỉ chừa lại trong xứ những người nghèo khổ hơn hết, đặng trồng nho và làm ruộng.  
  
3. Vua đứng trên tòa, lập giao ước trước mặt Đức Giê-hô-va, hứa đi theo Đức Giê-hô-va, hết lòng hết ý gìn giữ những điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Ngài, và làm hoàn thành lời giao ước đã chép trong sách này. Cả dân sự đều ưng lời giao ước ấy.
+
13. Quân Canh-đê đập bể những trụ đồng, táng đồng, và cái biển bằng đồng ở trong đền thờ của Đức Giê-hô-va, rồi đem đồng ấy về Ba-by-lôn. 14.  Chúng nó cũng đem đi những nồi đồng, vá, dao, chén, và hết thảy những khí dụng bằng đồng dùng vào việc thờ phượng. 15.  Lại quan thị vệ ấy đem đi những lư hương, chậu, và các vật bằng vàng, bạc. 16.  Còn hai cây trụ, cái biển đồng, và các miếng táng mà Sa-lô-môn đã làm cho đền thờ của Đức Giê-hô-va, thì không thể cân được đồng của các vật ấy. 17.  Mỗi cây trụ có mười tám thước bề cao, trên trụ có đầu đồng ba thước bề cao, có bao quanh lưới trái lựu cũng bằng đồng. Cây thứ nhì trang sức lưới giống như cây trước.  
  
4. Vua bèn truyền lịnh cho thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia, cho mấy thầy phó tế, và các người giữ cửa đền thờ, cất khỏi đền thờ của Đức Giê--va hết thảy những khí giới người ta làm đặng cúng thờ Ba-anh, Át-tạt-tê, và cả cơ binh trên trời. Người bảo thiêu các vật đó ngoài Giê-ru-sa-lem, trong đồng ruộng Xết-rôn, rồi đem tro nó đến Bê-tên.
+
18. Quan thị vệ bắt thầy tế lễ thượng phẩm -ra-gia, thầy phó tế lễ Sô-phô-ni, và ba người canh giữ cửa đền thờ, 19.  lại bắt trong thành một hoạn quan coi các chiến sĩ, năm người trong các cận thần vua, thơ ký của quan tổng binh lo chiêu mộ binh lính của xứ, luôn với sáu mươi người của xứ cũng ở trong thành; 20.  quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan bắt dẫn hết thảy những người ấy đến vua Ba-by-lôn, tại Ríp-la. 21. Vua Ba-by-lôn khiến giết chúng nó tại Ríp-la, trong xứ Ha-mát.  
  
5. Người cũng đuổi những thầy cả của các tà thần những vua Giu-đa đã lập, đặng xông hương trên các nơi cao trong những thành Giu-đa và tại các nơi chung quanh Giê-ru-sa-lem; cũng đuổi đi những thầy cả dâng hương cho Ba-anh, cho mặt trời, mặt trăng, huỳnh đạo, và cả cơ binh trên trời.
+
Như vậy, dân Giu-đa bị bắt đem đi khỏi xứ mình. 22.  Còn về dân sự Nê-bu-cát-nết-sa đã chừa lại trong xứ Giu-đa, thì vua Ba-by-lôn đặt Ghê-đa-lia, con trai A-hi-cam, cháu Sa-phan, làm quan tổng đốc. 23.  Khi các quan tướng tức là Ích-ma-ên, con trai Nê-tha-nia, Giô-ha-nan, con trai Ca-rê-át, Sê-ra-gia, con trai Tan-hu-mết ở Nê-tô-phát và Gia-a-xa-nia, con trai của Ma-ca-thít, và những quân lính họ, đều hay rằng vua Ba-by-lôn đã đặt Ghê-đa-lia làm quan tổng đốc, thì họ bèn đi đến người tại Mích-ba. 24.  Ghê-đa-lia thề với chúng với quân lính của chúng rằng: Chớ sợ những tôi tớ của Canh-đê. Hãy ở trong xứ, thần phục vua Ba-by-lôn, thì các ngươi sẽ được bình an. 25.  Nhưng tháng bảy, Ích-ma-ên, con trai Nê-tha-nia, cháu Ê-li-sa-ma, về dòng dõi vua, đến tại Mích-ba, có mười người đi theo, đánh Ghê-đa-lia, và giết người luôn với người Giu-đa và người Canh-đê ở với người. 26.  Cả dân sự, từ nhỏ đến lớn, và những quan tướng, bèn chổi dậy, đi đến xứ Ê-díp-tô, bởi vì sợ người Canh-đê báo thù.  
  
6. Người cất hình tượng Át-tạt-tê khỏi đền thờ của Đức Giê-hô-va, đem nó ra ngoài Giê-ru-sa-lem, đến khe Xết-rôn, thiêu đốt nó tại đó nghiền ra tro, rồi rải tro ấy trên mồ của thường dân.
+
27. Năm thứ ba mươi bảy từ khi Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, phải giam, ngày hai mươi bảy tháng mười hai, Ê-vinh-mê-rô-đác, vua Ba-by-lôn, năm đầu tức vị, tha cho Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, ra khỏi ngục. 28.  Người nói với Giê--gia-kin lời hòa nhã, và đặt ngôi người cao hơn ngôi các vua đồng với người tại Ba-by-lôn. 29.  Người biểu lột áo tù của Giê-hô-gia-kin, và cho người ăn đồng bàn với mình trọn đời người. 30.  Lại trọn đời người, vua hằng ngày lo phù-cấp lương thực cho người. <br/>
  
7. Người lại phá những phòng của bợm vĩ gian ở trong đền thờ của Đức Giê-hô-va, là nơi đó người nữ dệt những trại cho Át-tạt-tê.
+
:<html5media height="520" width="1280">https://thuvientinlanh.org/audio/Bible/read/V02\B12\V02B12C025.mp3</html5media>
  
8. Người cũng đòi đến hết thảy những thầy tế lễ ở các thành Giu-đa, làm ô uế những nơi cao mà chúng nó có xông hương, từ Ghê-ba cho đến Bê-e-Sê-ba; lại phá những bàn thờ lập tại cửa thành, tức tại cửa Giô-suê, quan cai thành, ở về phía bên tả, khi vào cửa thành.
+
==Bản Dịch 2011==
 +
'''Giê-ru-sa-lem Bị Sụp Ðổ'''
  
9. Song, những người đã làm thầy tế lễ các nơi cao, thì chẳng được lên đến bàn thờ của Đức Giê--va tại Giê-ru-sa-lem; song họ ăn bánh không men với anh em mình.
+
(2 Sử 36:17-20; Giê 39:1-10; 40:7-9; 41:1-3, 16-18; 52:4-27)
  
10. Người cũng làm ô uế Tô-phết tại trong trũng con cái Hi-nôm, hầu cho từ rày về sau, không ai được đưa con trai hay là con gái mình qua lửa cho Mo-lóc.
+
1 Năm thứ chín của triều đại Xê-đê-ki-a, ngày mồng mười tháng mười, Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn đem toàn thể quân lực của ông đến bao vây Giê-ru-sa-lem và tấn công thành.  Ông đóng trại bên ngoài và đắp lũy bao vây thành.  2 Vậy thành bị vây cho đến năm thứ mười một của triều đại Xê-đê-ki-a.  3 Ðến ngày mồng chín tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành rất khốc liệt.  Dân chúng không còn thực phẩm để ăn.  4 Bấy giờ vách thành bị phá thủng một lỗ.  Ban đêm vua và tất cả quân lính bỏ thành chạy trốn.  Họ trốn qua cổng nằm giữa hai bức tường, gần vườn ngự uyển.  Mặc dù họ biết có quân Canh-đê đang bao vây thành, họ vẫn nhắm hướng A-ra-ba mà chạy.  5 Nhưng quân của dân Canh-đê rượt theo vua và bắt sống được ông trong đồng bằng ở Giê-ri-cô.  Toàn thể quân đội của ông liền bị tan rã.  Họ bỏ ông và mạnh ai nấy đào thoát.  6 Vậy vua bị bắt sống và đem về nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la; tại đó chúng tuyên án ông.  7 Chúng giết các con trai Xê-đê-ki-a trước mắt ông.  Ðoạn chúng móc mắt Xê-đê-ki-a, lấy xích đồng xiềng ông lại, rồi dẫn ông qua Ba-by-lôn.  
  
11. Người trừ bỏ những con ngựa các vua Giu-đa dâng cho mặt trời, ở nơi cửa vào đền Đức Giê--va, tại nơi công đường của quan hoạn Nê-than--léc, trong hành lang của đền thờ; còn những xe của mặt trời, thì người thiêu đốt.
+
8 Ngày bảy tháng năm, năm thứ mười chín của triều đại Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ, tôi tớ của vua Ba-by-lôn, vào Giê-ru-sa-lem.  9 Ông phóng hỏa đốt Ðền Thờ CHÚA, cung điện hoàng gia, và tất cả nhà cửa trong Giê-ru-sa-lem.  Ông cũng đốt tất cả dinh thự của các nhà quyền quý trong thành.  10 Sau đó toàn quân Canh-đê, theo lệnh của quan chỉ huy quân thị vệ, đập phá các tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem.  11 Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ bắt tất cả những người còn lại trong thành, tức những người đã đào ngũ theo vua Ba-by-lôn và những người còn sót lại trong dân, đem lưu đày.  12 Tuy nhiên quan chỉ huy quân thị vệ cũng chừa lại một ít người nghèo khổ nhất trong xứ để trồng nho và làm ruộng.
  
12. Vua Giô-si-a cũng phá những bàn thờ mà các vua Giu-đa đã cất trên nóc nhà lầu của vua A-cha; lại những bàn thờ mà Ma-na-se có dựng lên trong hai hành lang của đền thờ Đức Giê--va, thì người đập bể, cất khỏi chỗ, và rải bụi nát nó trong khe Xết-rôn.
+
13 Các trụ đồng trong Ðền Thờ CHÚA, các giàn xe đồng, và chiếc bể đồng nơi Ðền Thờ CHÚA đều bị quân Canh-đê cắt ra từng mảnh, rồi chở cả thảy số đồng đó về Ba-by-lôn.  14 Chúng cũng lấy đi những nồi đồng, vá đồng, dao, kéo, bát hương, và mọi vật dụng bằng đồng để dùng vào việc tế lễ trong Ðền Thờ.  15 Quan chỉ huy quân thị vệ cũng lấy đi các lư hương, các chậu, và tất cả các dụng cụ bằng vàng và bằng bạc, để lấy vàng và bạc của những món đó.  16 Còn hai trụ đồng, cái bể đồng, và các giàn xe đồng Sa--môn đã làm cho Ðền Thờ CHÚA, thì số đồng ấy quá nhiều, không thể cân được.  17 Mỗi trụ cao chín mét, bên trên đầu trụ có cái táng bằng đồng, cao một mét rưỡi; xung quanh táng được bao bằng lưới đồng và những trái lựu bằng đồng.  Trụ đồng thứ nhì cũng thế, và cũng có lưới đồng như vậy.  
  
13. Vua cũng làm ô uế những nơi cao ở tại trước Giê-ru-sa-lem, bên phía hữu núi Tà-tịch, là những nơi cao mà Sa--môn, vua Y--ra-ên, đã cất lên để cùng thờ Át-tạt-tê, thần tượng quái gở của dân Si-đôn, Kê-mốt, thần tượng quái gở của dân Mô-áp, và Minh-cô, thần tượng gớm ghiếc của dân Am-môn.
+
18 Quan chỉ huy quân thị vệ bắt được Thượng Tế Sê-ra-gia, Phó Thượng Tế Sô-phô-ni-a, và ba viên chức canh cửa đền thờ.  19 Ông cũng bắt được một tướng chỉ huy quân đội, năm cố vấn của vua còn lại trong thành, quan bí thư, người đặc trách việc chiêu mộ quân binh trong nước, và sáu mươi người gan dạ trong xứ còn trốn trong thành.  20 Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ bắt họ và dẫn họ đến nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la.  21 Vua Ba-by-lôn ra lịnh giết họ tại Ríp-la trong xứ Ha-mát.  Thế là dân Giu-đa đã bị bắt đi lưu đày khỏi xứ sở của họ.
  
14. Người bẻ gãy các trụ thờ, đánh đổ các hình tượng Át-tạt-tê, và chất đầy hài cốt tại chỗ nó đã đứng.
+
'''Ghê-đa-li-a Làm Thống Ðốc Giu-đa'''
  
15. Lại, người phá bàn thờ tại Bê-tên, và nơi cao mà Giê---am, con trai Nê-bát, đã lập, tức là người đó gây cho Y--ra-ên phạm tội; người phá bàn thờ ấy, thiêu đốt nơi cao, và cán nghiền thành ra tro bụi; cũng thiêu đốt tượng Át-tạt-.
+
22 Sau đó Nê-bu-cát--xa vua Ba-by-lôn lập Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam con của Sa-phan lên làm thống đốc trên dân còn lại trong xứ Giu-đa, tức những người ông chừa lại.
  
16. Giô-si-a xây lại chợt thấy những mồ mả ở trên núi; người bèn sai lấy hài cốt ở trong những mồ mả ấy, rồi thiêu nó trên bàn thờ, làm cho bàn thờ bị ô uế, y như lời của Đức Giê--va, mà người của Đức Chúa Trời đã báo cáo trước.
+
23 Khi các thủ lãnh của các lực lượng kháng chiến và các đội quân của họ hay rằng Ghê-đa-li-a đã được vua Ba-by-lôn bổ nhiệm làm thống đốc, họ kéo nhau đến gặp Ghê-đa-li-a tại Mích-pa; đó là Ích-ma-ên con của Nê-tha-ni-a, Giô-ha-nan con của Ca-rê-a, Sê-ra-gia con của Tan-hu-mết thuộc dòng dõi Nê--pha, và Gia-a-xa-ni-a thuộc dòng dõi của Ma-a-ca.
  
17. Đoạn, vua hỏi rằng: Bia ta thấy đó là chi? Các người thành ấy đáp rằng: Ấy là mồ mả của người Đức Chúa Trời Giu-đa, đến báo cáo trước về những việc mà vua đã làm cho bàn thờ tại Bê-tên.
+
24 Ghê-đa-li-a thề với họ và thuộc hạ của họ rằng, “Ðừng sợ các quan lại người Canh-đê.  Cứ trong xứ và thần phục vua Ba-by-lôn thì các ông sẽ được bình an.
  
18. Người tiếp: Hãy để hài cốt ấy bình yên, chớ ai dời đi. Vậy, chúng chẳng dời hài cốt của người, cùng hài cốt của đấng tiên tri Sa-ma-ri mà ra.
+
25 Nhưng đến tháng bảy, Ích-ma-ên con của Nê-tha-ni-a con của Ê-li-sa-ma, thuộc dòng dõi hoàng tộc, dẫn mười người đi với ông đến Mích-pa. Họ vào hạ sát Ghê-đa-li-a, các vệ sĩ người Giu-đa, và những người Canh-đê đang với ông ấy.
  
19. Giô-si-a cũng dỡ hết thảy chùa miễu của các nơi cao ở tại trong thành Sa-ma-ri, mà các vua Y-sơ-ra-ên đã lập đặng chọc giận Đức Giê-hô-va, phá hủy các nhà đó như đã làm trong Bê-tên.
+
26 Sau đó toàn dân, từ nhỏ đến lớn, và các thủ lãnh của các lực lượng kháng chiến đứng dậy và đi xuống Ai-cập, vì họ sợ người Canh-đê đến báo thù.
  
20. Người giết tại trên bàn thờ những thầy cả của các nơi cao, và thiêu hài cốt ở trên. Đoạn, người trở về Giê-ru-sa-lem.
+
'''Giê--gia-kin Ðược Ân Xá'''
  
21. Vua bèn truyền lịnh cho cả dân sự rằng: Hãy giữ lễ Vượt qua cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, tùy theo các lời đã chép trong sách giao ước.
+
(Giê 52:31-34)
  
22. Trong lúc các quan xét đã xét đoán Y--ra-ên, hoặc trong đời các vua Y--ra-ên và vua Giu-đa, thật chẳng hề có giữ một lễ Vượt qua nào
+
27 Ngày hai mươi bảy tháng mười hai, năm thứ ba mươi bảy, kể từ khi Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa bị lưu đày, tức năm thứ nhất của triều đại Ê-vin Mê--đác vua Ba-by-lôn, vào năm vua ấy bắt đầu trị vì, ông phóng thích Giê--gia-kin vua Giu-đa ra khỏi ngục.
  
23. giống như lễ Vượt qua giữ cho Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, nhằm năm thứ mười tám đời vua Giô-si-a.
+
28 Ông dùng lời tử tế nói với Giê-hô-gia-kin và ban cho ông ấy địa vị cao hơn các vua cùng bị quản thúc tại Ba-by-lôn.
  
24. Giô-si-a cũng trừ diệt những đồng cốt và thầy bói, những thê-ra-phim, và hình tượng, cùng hết thảy sự gớm ghiếc thấy trong xứ Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem, đặng làm theo các lời luật pháp đã chép trong sách mà thầy tế lễ Hinh-kia đã tìm đặng trong đền thờ của Đức Giê-hô-va.
+
29 Ông cũng cho Giê--gia-kin được cởi bỏ áo tù hằng ngày được ngồi ăn đồng bàn với ông trọn đời còn lại của ông ấy.
  
25. Trước Giô-si-a, chẳng có một vua nào hết lòng, hết ý, hết sức mình, mà tríu mến Đức Giê-hô-va, làm theo trọn vẹn luật pháp của Môi-se; và sau người cũng chẳng có thấy ai giống như người nữa.
+
30 Về việc cấp dưỡng cho Giê-hô-gia-kin, vua đã cấp dưỡng đều đặn, mỗi ngày một phần, cho đến khi ông ấy hưởng trọn tuổi thọ của ông.
  
26. Dầu vậy Đức Giê-hô-va không nguôi cơn giận nóng và mạnh mà Ngài nổi lên cùng Giu-đa, vì cớ các tội trọng của Ma-na-se trêu chọc Ngài.
+
==Tài Liệu==
 
 
27. Vả, Đức Giê-hô-va có phán rằng: Ta sẽ cất Giu-đa khỏi mặt ta như ta đã cất Y-sơ-ra-ên đi, và ta sẽ trừ bỏ thành Giê-ru-sa-lem mà ta đã chọn, và đền thờ mà ta phán về nó rằng: Danh ta sẽ ngự tại đó.
 
 
 
28. Các chuyện khác của Giô-si-a, những công việc người làm, điều chép trong sử ký về các vua Giu-đa.
 
 
 
29. Trong đời Giô-si-a, Pha-ra-ôn Nê-cô, vua Ê-díp-tô, đi lên sông Ơ-phơ-rát, hãm đánh vua A-si-ri. Giô-si-a bèn đi ngữ người. Nhưng Pha-ra-ôn vừa khi gặp người, bèn giết đi tại Mê-ghi-đô.
 
 
 
30. Từ Mê-ghi-đô, các tôi tớ chở thây người trên xe về Giê-ru-sa-lem, rồi chôn người tại trong mồ mả người. Dân của xứ chọn Giô-a-cha, con trai Giô-si-a xức dầu cho người, và tôn người lên làm vua thế cho cha người.
 
 
 
31. Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi khi lên làm vua; người cai trị ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Ha-mu-ta, con gái của Giê-rê-mi ở Líp-na.
 
 
 
32. Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, theo trọn gương của các tổ phụ mình đã làm.
 
 
 
33. Pha-ra-ôn Nê-cô bắt giam người tại Ríp-la, trong xứ Ha-mát, hầu cho người không cai trị tại Giê-ru-sa-lem nữa. Lại, người bắt xứ tiến cống một trăm ta lâng bạc và một ta lâng vàng.
 
 
 
34. Đoạn, Pha-ra-ôn Nê-cô lập Ê-li-a-kim, con trai Giô-si-a, làm vua thế cho Giô-si-a, cha người, và cải tên người là Giê-hô-gia-kim. Còn Giô-a-cha bị bắt làm phu tù tại Ê-díp-tô, và người qua đời tại đó.
 
 
 
35. Giê-hô-gia-kim nộp cho Pha-ra-ôn những bạc và vàng ấy. Nhưng để lo cho có số tiền Pha-ra-ôn đòi, thì người phải đánh thuế dân của xứ; người định thuế vàng bạc mỗi người phải giữ đóng; đoạn người giao hết cho Pha-ra-ôn Nê-cô.
 
 
 
36. Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi lên làm vua, và người cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Xê-bụt-đa, con gái Phê-đa-gia ở Ru-ma.
 
 
 
37. Người làm điều ác tại trước mặt Đức Giê-hô-va, theo trọn gương các tổ phụ mình đã làm.
 
 
 
==Bản Dịch 2011==
 
  
 +
:* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
  
 +
:* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
  
==Tài Liệu==
+
:* [[II Các Vua]]
  
* [[II Các Vua]]
+
:* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]]
* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1926 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
 
* Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
 
* Thánh Kinh Lược Khảo - Nhà Xuất Bản Tin Lành Sài Gòn (1970)
 
* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]]
 

Bản hiện tại lúc 02:12, ngày 6 tháng 2 năm 2023

Bản Dịch 1925

1. Năm thứ chín đời Sê-đê-kia, ngày mồng một tháng mười, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, cùng cả đạo quân người, đến hãm đánh Giê-ru-sa-lem. Người hạ trại trước thành, và đắp lũy vây chung quanh thành. 2. Sự vây thành lâu dài cho đến năm thứ mười một đời Sê-đê-kia.

3. Ngày mồng chín tháng tư, có sự đói kém lớn trong thành, dân sự không có bánh. 4. Bấy giờ, quân Canh-đê làm lủng một lỗ nơi vách tường thành; đoạn hết thảy quân lính đang ban đêm đều chạy trốn bởi cửa ở giữa hai vách thành gần vườn vua. Đương khi quân Canh-đê vây thành, thì vua chạy trốn theo đường đồng bằng. 5. Đạo quân Canh-đê bèn đuổi theo vua, và theo kịp người tại trong đồng bằng Giê-ri-cô; cả cơ binh người đều tản lạc và bỏ người. 6. Quân Canh-đê bắt vua, dẫn đến vua Ba-by-lôn ở Ríp-la; tại đó chúng nó xét đoán người. 7. Chúng nó giết các con trai Sê-đê-kia trước mặt người; đoạn, chúng nó móc mắt Sê-đê-kia xiềng người bằng xích đồng, rồi dẫn người đến Ba-by-lôn. 8. Ngày mồng bảy tháng năm, năm thứ mười chín đời Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan, tôi tớ của vua Ba-by-lôn, đến Giê-ru-sa-lem. 9. Người thiêu đốt đền thờ Đức Giê-hô-va, cung của vua, và mọi nhà trong thành Giê-ru-sa-lem; thiêu đốt luôn các nhà của người sang trọng. 10. Đoạn, đạo quân Canh-đê, vâng lịnh quan thị vệ, phá đổ vách thành chung quanh Giê-ru-sa-lem. 11. Quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan bắt dân cư còn sót lại trong thành, luôn với những kẻ hàng đầu vua Ba-by-lôn và đám dân còn lại khác, mà dẫn đi làm phu tù. 12. Quan thị vệ chỉ chừa lại trong xứ những người nghèo khổ hơn hết, đặng trồng nho và làm ruộng.

13. Quân Canh-đê đập bể những trụ đồng, táng đồng, và cái biển bằng đồng ở trong đền thờ của Đức Giê-hô-va, rồi đem đồng ấy về Ba-by-lôn. 14. Chúng nó cũng đem đi những nồi đồng, vá, dao, chén, và hết thảy những khí dụng bằng đồng dùng vào việc thờ phượng. 15. Lại quan thị vệ ấy đem đi những lư hương, chậu, và các vật bằng vàng, bạc. 16. Còn hai cây trụ, cái biển đồng, và các miếng táng mà Sa-lô-môn đã làm cho đền thờ của Đức Giê-hô-va, thì không thể cân được đồng của các vật ấy. 17. Mỗi cây trụ có mười tám thước bề cao, trên trụ có đầu đồng ba thước bề cao, có bao quanh lưới và trái lựu cũng bằng đồng. Cây thứ nhì trang sức lưới giống như cây trước.

18. Quan thị vệ bắt thầy tế lễ thượng phẩm Sê-ra-gia, thầy phó tế lễ Sô-phô-ni, và ba người canh giữ cửa đền thờ, 19. lại bắt trong thành một hoạn quan coi các chiến sĩ, năm người trong các cận thần vua, thơ ký của quan tổng binh lo chiêu mộ binh lính của xứ, luôn với sáu mươi người của xứ cũng ở trong thành; 20. quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan bắt dẫn hết thảy những người ấy đến vua Ba-by-lôn, tại Ríp-la. 21. Vua Ba-by-lôn khiến giết chúng nó tại Ríp-la, trong xứ Ha-mát.

Như vậy, dân Giu-đa bị bắt đem đi khỏi xứ mình. 22. Còn về dân sự mà Nê-bu-cát-nết-sa đã chừa lại trong xứ Giu-đa, thì vua Ba-by-lôn đặt Ghê-đa-lia, con trai A-hi-cam, cháu Sa-phan, làm quan tổng đốc. 23. Khi các quan tướng tức là Ích-ma-ên, con trai Nê-tha-nia, Giô-ha-nan, con trai Ca-rê-át, Sê-ra-gia, con trai Tan-hu-mết ở Nê-tô-phát và Gia-a-xa-nia, con trai của Ma-ca-thít, và những quân lính họ, đều hay rằng vua Ba-by-lôn đã đặt Ghê-đa-lia làm quan tổng đốc, thì họ bèn đi đến người tại Mích-ba. 24. Ghê-đa-lia thề với chúng và với quân lính của chúng rằng: Chớ sợ những tôi tớ của Canh-đê. Hãy ở trong xứ, thần phục vua Ba-by-lôn, thì các ngươi sẽ được bình an. 25. Nhưng tháng bảy, Ích-ma-ên, con trai Nê-tha-nia, cháu Ê-li-sa-ma, về dòng dõi vua, đến tại Mích-ba, có mười người đi theo, đánh Ghê-đa-lia, và giết người luôn với người Giu-đa và người Canh-đê ở với người. 26. Cả dân sự, từ nhỏ đến lớn, và những quan tướng, bèn chổi dậy, đi đến xứ Ê-díp-tô, bởi vì sợ người Canh-đê báo thù.

27. Năm thứ ba mươi bảy từ khi Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, phải giam, ngày hai mươi bảy tháng mười hai, Ê-vinh-mê-rô-đác, vua Ba-by-lôn, năm đầu tức vị, tha cho Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, ra khỏi ngục. 28. Người nói với Giê-hô-gia-kin lời hòa nhã, và đặt ngôi người cao hơn ngôi các vua đồng với người tại Ba-by-lôn. 29. Người biểu lột áo tù của Giê-hô-gia-kin, và cho người ăn đồng bàn với mình trọn đời người. 30. Lại trọn đời người, vua hằng ngày lo phù-cấp lương thực cho người.

Bản Dịch 2011

Giê-ru-sa-lem Bị Sụp Ðổ

(2 Sử 36:17-20; Giê 39:1-10; 40:7-9; 41:1-3, 16-18; 52:4-27)

1 Năm thứ chín của triều đại Xê-đê-ki-a, ngày mồng mười tháng mười, Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn đem toàn thể quân lực của ông đến bao vây Giê-ru-sa-lem và tấn công thành. Ông đóng trại bên ngoài và đắp lũy bao vây thành. 2 Vậy thành bị vây cho đến năm thứ mười một của triều đại Xê-đê-ki-a. 3 Ðến ngày mồng chín tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành rất khốc liệt. Dân chúng không còn thực phẩm để ăn. 4 Bấy giờ vách thành bị phá thủng một lỗ. Ban đêm vua và tất cả quân lính bỏ thành chạy trốn. Họ trốn qua cổng nằm giữa hai bức tường, gần vườn ngự uyển. Mặc dù họ biết có quân Canh-đê đang bao vây thành, họ vẫn nhắm hướng A-ra-ba mà chạy. 5 Nhưng quân của dân Canh-đê rượt theo vua và bắt sống được ông trong đồng bằng ở Giê-ri-cô. Toàn thể quân đội của ông liền bị tan rã. Họ bỏ ông và mạnh ai nấy đào thoát. 6 Vậy vua bị bắt sống và đem về nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la; tại đó chúng tuyên án ông. 7 Chúng giết các con trai Xê-đê-ki-a trước mắt ông. Ðoạn chúng móc mắt Xê-đê-ki-a, lấy xích đồng xiềng ông lại, rồi dẫn ông qua Ba-by-lôn.

8 Ngày bảy tháng năm, năm thứ mười chín của triều đại Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ, tôi tớ của vua Ba-by-lôn, vào Giê-ru-sa-lem. 9 Ông phóng hỏa đốt Ðền Thờ CHÚA, cung điện hoàng gia, và tất cả nhà cửa trong Giê-ru-sa-lem. Ông cũng đốt tất cả dinh thự của các nhà quyền quý trong thành. 10 Sau đó toàn quân Canh-đê, theo lệnh của quan chỉ huy quân thị vệ, đập phá các tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. 11 Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ bắt tất cả những người còn lại trong thành, tức những người đã đào ngũ theo vua Ba-by-lôn và những người còn sót lại trong dân, đem lưu đày. 12 Tuy nhiên quan chỉ huy quân thị vệ cũng chừa lại một ít người nghèo khổ nhất trong xứ để trồng nho và làm ruộng.

13 Các trụ đồng trong Ðền Thờ CHÚA, các giàn xe đồng, và chiếc bể đồng nơi Ðền Thờ CHÚA đều bị quân Canh-đê cắt ra từng mảnh, rồi chở cả thảy số đồng đó về Ba-by-lôn. 14 Chúng cũng lấy đi những nồi đồng, vá đồng, dao, kéo, bát hương, và mọi vật dụng bằng đồng để dùng vào việc tế lễ trong Ðền Thờ. 15 Quan chỉ huy quân thị vệ cũng lấy đi các lư hương, các chậu, và tất cả các dụng cụ bằng vàng và bằng bạc, để lấy vàng và bạc của những món đó. 16 Còn hai trụ đồng, cái bể đồng, và các giàn xe đồng Sa-lô-môn đã làm cho Ðền Thờ CHÚA, thì số đồng ấy quá nhiều, không thể cân được. 17 Mỗi trụ cao chín mét, bên trên đầu trụ có cái táng bằng đồng, cao một mét rưỡi; xung quanh táng được bao bằng lưới đồng và những trái lựu bằng đồng. Trụ đồng thứ nhì cũng thế, và cũng có lưới đồng như vậy.

18 Quan chỉ huy quân thị vệ bắt được Thượng Tế Sê-ra-gia, Phó Thượng Tế Sô-phô-ni-a, và ba viên chức canh cửa đền thờ. 19 Ông cũng bắt được một tướng chỉ huy quân đội, năm cố vấn của vua còn lại trong thành, quan bí thư, người đặc trách việc chiêu mộ quân binh trong nước, và sáu mươi người gan dạ trong xứ còn trốn trong thành. 20 Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ bắt họ và dẫn họ đến nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la. 21 Vua Ba-by-lôn ra lịnh giết họ tại Ríp-la trong xứ Ha-mát. Thế là dân Giu-đa đã bị bắt đi lưu đày khỏi xứ sở của họ.

Ghê-đa-li-a Làm Thống Ðốc Giu-đa

22 Sau đó Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn lập Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam con của Sa-phan lên làm thống đốc trên dân còn lại trong xứ Giu-đa, tức những người ông chừa lại.

23 Khi các thủ lãnh của các lực lượng kháng chiến và các đội quân của họ hay rằng Ghê-đa-li-a đã được vua Ba-by-lôn bổ nhiệm làm thống đốc, họ kéo nhau đến gặp Ghê-đa-li-a tại Mích-pa; đó là Ích-ma-ên con của Nê-tha-ni-a, Giô-ha-nan con của Ca-rê-a, Sê-ra-gia con của Tan-hu-mết thuộc dòng dõi Nê-tô-pha, và Gia-a-xa-ni-a thuộc dòng dõi của Ma-a-ca.

24 Ghê-đa-li-a thề với họ và thuộc hạ của họ rằng, “Ðừng sợ các quan lại người Canh-đê. Cứ ở trong xứ và thần phục vua Ba-by-lôn thì các ông sẽ được bình an.”

25 Nhưng đến tháng bảy, Ích-ma-ên con của Nê-tha-ni-a con của Ê-li-sa-ma, thuộc dòng dõi hoàng tộc, dẫn mười người đi với ông đến Mích-pa. Họ vào hạ sát Ghê-đa-li-a, các vệ sĩ người Giu-đa, và những người Canh-đê đang ở với ông ấy.

26 Sau đó toàn dân, từ nhỏ đến lớn, và các thủ lãnh của các lực lượng kháng chiến đứng dậy và đi xuống Ai-cập, vì họ sợ người Canh-đê đến báo thù.

Giê-hô-gia-kin Ðược Ân Xá

(Giê 52:31-34)

27 Ngày hai mươi bảy tháng mười hai, năm thứ ba mươi bảy, kể từ khi Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa bị lưu đày, tức năm thứ nhất của triều đại Ê-vin Mê-rô-đác vua Ba-by-lôn, vào năm vua ấy bắt đầu trị vì, ông phóng thích Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa ra khỏi ngục.

28 Ông dùng lời tử tế nói với Giê-hô-gia-kin và ban cho ông ấy địa vị cao hơn các vua cùng bị quản thúc tại Ba-by-lôn.

29 Ông cũng cho Giê-hô-gia-kin được cởi bỏ áo tù và hằng ngày được ngồi ăn đồng bàn với ông trọn đời còn lại của ông ấy.

30 Về việc cấp dưỡng cho Giê-hô-gia-kin, vua đã cấp dưỡng đều đặn, mỗi ngày một phần, cho đến khi ông ấy hưởng trọn tuổi thọ của ông.

Tài Liệu

  • Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
  • Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu