Khác biệt giữa các bản “Châm Ngôn: Chương 26”
(Update Ban Dich 2011) |
(Added audio) |
||
Dòng 2: | Dòng 2: | ||
1. Sự vinh hiển không xứng cho kẻ ngu muội, Như tuyết trong mùa hạ, như mưa trong mùa gặt.<br/>2. Như chim sẻ bay đi đây đó, như con én liệng đi, Lời rủa sả vô cớ cũng vậy, nó chẳng hề xảy đến.<br/>3. Roi nẹt dùng cho ngựa, hàm thiết để cho lừa, Còn roi vọt dành cho lưng kẻ ngu muội.<br/>4. Chớ đáp với kẻ ngu si tùy sự ngu dại nó, E con giống như nó chăng.<br/>5. Hãy đáp với kẻ ngu si tùy sự ngu dại nó, Kẻo nó khôn ngoan theo mắt nó chăng.<br/>6. Kẻ nào cậy kẻ ngu muội đem báo tin, Chặt chân mình, và uống lấy sự tổn hại.<br/>7. Ống chân người què đòng đưa vô đụng; Câu châm ngôn trong miệng kẻ ngu dại cũng vậy.<br/>8. Tôn trọng kẻ ngu muội, Giống như bỏ cục ngọc vào trong đống đá.<br/>9. Câu châm ngôn ở nơi miệng kẻ ngu muội, Khác nào một cái gai đâm vào tay người say rượu.<br/>10. Ai mướn người ngu muội và kẻ khách đi qua đường, Giống như một lính xạ tên làm thương mọi người.<br/>11. Kẻ ngu muội làm lại việc ngu dại mình, Khác nào con chó đã mửa ra, rồi liếm lại.<br/>12. Con có thấy người nào khôn ngoan theo mắt nó chăng? Còn có sự trông cậy cho kẻ ngu muội hơn là cho nó.<br/>13. Kẻ biếng nhác nói: Có con sư tử ngoài đường; Một con sư tử ở trong đường phố.<br/>14. Kẻ biếng nhác lăn trở trên giường mình, Khác nào cửa xây trên bản lề nó.<br/>15. Kẻ biếng nhác thò tay mình vào trong dĩa, Lấy làm mệt nhọc mà đem nó lên miệng.<br/>16. Kẻ biếng nhác tự nghĩ mình khôn ngoan Hơn bảy người đáp lại cách có lý.<br/>17. Kẻ nào đi qua đường mà nổi giận về cuộc cãi lẫy không can đến mình, Khác nào kẻ nắm con chó nơi vành tai.<br/>18. Người nào phỉnh gạt kẻ lân cận mình, Rồi nói rằng: Tôi chơi mà!<br/>19. Khác nào kẻ điên cuồng ném than lửa, Cây tên, và sự chết.<br/>20. Lửa tắt tại thiếu củi; Khi chẳng có ai thèo lẻo cuộc tranh cạnh bèn nguôi.<br/>21. Than chụm cho than đỏ, và củi để chụm lửa; Người hay tranh cạnh xui nóng cãi cọ cũng vậy.<br/>22. Lời kẻ thèo lẻo giống như vật thực ngon, Vào thấu đến tận gan ruột.<br/>23. Môi miệng sốt sắng và lòng độc ác, Khác nào bình gốm bọc vàng bạc pha.<br/>24. Kẻ nào ghen ghét, dùng môi miệng nói giả đò, Nhưng trong lòng nó nuôi sự gian lận;<br/>25. Khi nó nói ngọt nhạt, thì chớ tin; Vì trong lòng nó có bảy sự gớm ghiếc.<br/>26. Dầu sự ghen ghét ẩn giấu trong tuồng giả bộ, Sự gian ác nó sẽ bị lộ ra nơi hội chúng.<br/>27. Ai đào hầm sẽ té xuống đó; Kẻ nào lăn đá, đá sẽ trở đè lại nó.<br/>28. Lưỡi giả dối ghét những kẻ nó đã chà nát; Và miệng dua nịnh gây điều bại hoại.<br/> | 1. Sự vinh hiển không xứng cho kẻ ngu muội, Như tuyết trong mùa hạ, như mưa trong mùa gặt.<br/>2. Như chim sẻ bay đi đây đó, như con én liệng đi, Lời rủa sả vô cớ cũng vậy, nó chẳng hề xảy đến.<br/>3. Roi nẹt dùng cho ngựa, hàm thiết để cho lừa, Còn roi vọt dành cho lưng kẻ ngu muội.<br/>4. Chớ đáp với kẻ ngu si tùy sự ngu dại nó, E con giống như nó chăng.<br/>5. Hãy đáp với kẻ ngu si tùy sự ngu dại nó, Kẻo nó khôn ngoan theo mắt nó chăng.<br/>6. Kẻ nào cậy kẻ ngu muội đem báo tin, Chặt chân mình, và uống lấy sự tổn hại.<br/>7. Ống chân người què đòng đưa vô đụng; Câu châm ngôn trong miệng kẻ ngu dại cũng vậy.<br/>8. Tôn trọng kẻ ngu muội, Giống như bỏ cục ngọc vào trong đống đá.<br/>9. Câu châm ngôn ở nơi miệng kẻ ngu muội, Khác nào một cái gai đâm vào tay người say rượu.<br/>10. Ai mướn người ngu muội và kẻ khách đi qua đường, Giống như một lính xạ tên làm thương mọi người.<br/>11. Kẻ ngu muội làm lại việc ngu dại mình, Khác nào con chó đã mửa ra, rồi liếm lại.<br/>12. Con có thấy người nào khôn ngoan theo mắt nó chăng? Còn có sự trông cậy cho kẻ ngu muội hơn là cho nó.<br/>13. Kẻ biếng nhác nói: Có con sư tử ngoài đường; Một con sư tử ở trong đường phố.<br/>14. Kẻ biếng nhác lăn trở trên giường mình, Khác nào cửa xây trên bản lề nó.<br/>15. Kẻ biếng nhác thò tay mình vào trong dĩa, Lấy làm mệt nhọc mà đem nó lên miệng.<br/>16. Kẻ biếng nhác tự nghĩ mình khôn ngoan Hơn bảy người đáp lại cách có lý.<br/>17. Kẻ nào đi qua đường mà nổi giận về cuộc cãi lẫy không can đến mình, Khác nào kẻ nắm con chó nơi vành tai.<br/>18. Người nào phỉnh gạt kẻ lân cận mình, Rồi nói rằng: Tôi chơi mà!<br/>19. Khác nào kẻ điên cuồng ném than lửa, Cây tên, và sự chết.<br/>20. Lửa tắt tại thiếu củi; Khi chẳng có ai thèo lẻo cuộc tranh cạnh bèn nguôi.<br/>21. Than chụm cho than đỏ, và củi để chụm lửa; Người hay tranh cạnh xui nóng cãi cọ cũng vậy.<br/>22. Lời kẻ thèo lẻo giống như vật thực ngon, Vào thấu đến tận gan ruột.<br/>23. Môi miệng sốt sắng và lòng độc ác, Khác nào bình gốm bọc vàng bạc pha.<br/>24. Kẻ nào ghen ghét, dùng môi miệng nói giả đò, Nhưng trong lòng nó nuôi sự gian lận;<br/>25. Khi nó nói ngọt nhạt, thì chớ tin; Vì trong lòng nó có bảy sự gớm ghiếc.<br/>26. Dầu sự ghen ghét ẩn giấu trong tuồng giả bộ, Sự gian ác nó sẽ bị lộ ra nơi hội chúng.<br/>27. Ai đào hầm sẽ té xuống đó; Kẻ nào lăn đá, đá sẽ trở đè lại nó.<br/>28. Lưỡi giả dối ghét những kẻ nó đã chà nát; Và miệng dua nịnh gây điều bại hoại.<br/> | ||
+ | |||
+ | :<html5media height="520" width="1280">https://thuvientinlanh.org/audio/Bible/read/V02\B20\V02B20C026.mp3</html5media> | ||
==Bản Dịch 2011== | ==Bản Dịch 2011== | ||
+ | |||
'''''' | '''''' | ||
Phiên bản lúc 00:39, ngày 31 tháng 5 năm 2020
Bản Dịch 1925
1. Sự vinh hiển không xứng cho kẻ ngu muội, Như tuyết trong mùa hạ, như mưa trong mùa gặt.
2. Như chim sẻ bay đi đây đó, như con én liệng đi, Lời rủa sả vô cớ cũng vậy, nó chẳng hề xảy đến.
3. Roi nẹt dùng cho ngựa, hàm thiết để cho lừa, Còn roi vọt dành cho lưng kẻ ngu muội.
4. Chớ đáp với kẻ ngu si tùy sự ngu dại nó, E con giống như nó chăng.
5. Hãy đáp với kẻ ngu si tùy sự ngu dại nó, Kẻo nó khôn ngoan theo mắt nó chăng.
6. Kẻ nào cậy kẻ ngu muội đem báo tin, Chặt chân mình, và uống lấy sự tổn hại.
7. Ống chân người què đòng đưa vô đụng; Câu châm ngôn trong miệng kẻ ngu dại cũng vậy.
8. Tôn trọng kẻ ngu muội, Giống như bỏ cục ngọc vào trong đống đá.
9. Câu châm ngôn ở nơi miệng kẻ ngu muội, Khác nào một cái gai đâm vào tay người say rượu.
10. Ai mướn người ngu muội và kẻ khách đi qua đường, Giống như một lính xạ tên làm thương mọi người.
11. Kẻ ngu muội làm lại việc ngu dại mình, Khác nào con chó đã mửa ra, rồi liếm lại.
12. Con có thấy người nào khôn ngoan theo mắt nó chăng? Còn có sự trông cậy cho kẻ ngu muội hơn là cho nó.
13. Kẻ biếng nhác nói: Có con sư tử ngoài đường; Một con sư tử ở trong đường phố.
14. Kẻ biếng nhác lăn trở trên giường mình, Khác nào cửa xây trên bản lề nó.
15. Kẻ biếng nhác thò tay mình vào trong dĩa, Lấy làm mệt nhọc mà đem nó lên miệng.
16. Kẻ biếng nhác tự nghĩ mình khôn ngoan Hơn bảy người đáp lại cách có lý.
17. Kẻ nào đi qua đường mà nổi giận về cuộc cãi lẫy không can đến mình, Khác nào kẻ nắm con chó nơi vành tai.
18. Người nào phỉnh gạt kẻ lân cận mình, Rồi nói rằng: Tôi chơi mà!
19. Khác nào kẻ điên cuồng ném than lửa, Cây tên, và sự chết.
20. Lửa tắt tại thiếu củi; Khi chẳng có ai thèo lẻo cuộc tranh cạnh bèn nguôi.
21. Than chụm cho than đỏ, và củi để chụm lửa; Người hay tranh cạnh xui nóng cãi cọ cũng vậy.
22. Lời kẻ thèo lẻo giống như vật thực ngon, Vào thấu đến tận gan ruột.
23. Môi miệng sốt sắng và lòng độc ác, Khác nào bình gốm bọc vàng bạc pha.
24. Kẻ nào ghen ghét, dùng môi miệng nói giả đò, Nhưng trong lòng nó nuôi sự gian lận;
25. Khi nó nói ngọt nhạt, thì chớ tin; Vì trong lòng nó có bảy sự gớm ghiếc.
26. Dầu sự ghen ghét ẩn giấu trong tuồng giả bộ, Sự gian ác nó sẽ bị lộ ra nơi hội chúng.
27. Ai đào hầm sẽ té xuống đó; Kẻ nào lăn đá, đá sẽ trở đè lại nó.
28. Lưỡi giả dối ghét những kẻ nó đã chà nát; Và miệng dua nịnh gây điều bại hoại.
Bản Dịch 2011
'
1 Như tuyết rơi vào mùa hè và mưa rơi trong mùa gặt thể nào,
Sự tôn trọng không xứng hợp cho kẻ dại cũng thể ấy.
2 Như chim sẻ bay lòng vòng và như chim én lượn thể nào,
Lời nguyền rủa vô cớ chẳng hiệu nghiệm gì cũng thể ấy.
3 Roi dành cho ngựa, hàm khớp dành cho lừa,
Còn đòn vọt dành cho lưng kẻ dại.
4 Ðừng đáp lời kẻ điên dại theo cách điên rồ của nó,
Kẻo con cũng giống như nó chăng.
5 Hãy giải thích cho kẻ điên dại biết sự điên rồ của nó,
Kẻo nó tưởng nó khôn ngoan theo mắt nó chăng.
6 Nhờ một kẻ dại đi báo tin,
Khác nào tự chặt chân mình và uống lấy thiệt hại.
7 Chân người què đong đưa vô dụng thể nào,
Câu châm ngôn trong miệng kẻ dại cũng vô dụng thể ấy.
8 Tôn trọng kẻ dại
Chẳng khác gì cài viên đá vào chiếc trành ném đá.
9 Người say rượu cố nhổ cái gai đâm vào tay thể nào,
Miệng kẻ dại cố nói ra câu châm ngôn cũng thể ấy.
10 Tay xạ thủ bắn mọi người bị thương thể nào,
Ai mướn kẻ qua đường hay mướn kẻ dại làm việc cũng thể ấy.
11 Chó liếm lại đồ nó đã mửa thế nào,
Kẻ dại lặp lại sự điên rồ của nó cũng thể ấy.
12 Con có thấy kẻ tự cho mình là khôn ngoan theo mắt nó chăng?
Người ta có hy vọng nơi kẻ dại hơn là nơi kẻ đó.
13 Kẻ biếng nhác nói, “Có con sư tử ngoài đường!
Có con sư tử dữ tợn ở ngoài đường phố!”
14 Cánh cửa quay quanh bản lề thể nào,
Kẻ biếng nhác lăn qua lăn lại trên giường nó cũng thể ấy.
15 Kẻ biếng nhác chôn tay vào trong đĩa,
Rồi lấy làm mệt nhọc nhấc tay lên đưa thức ăn vào miệng.
16 Kẻ biếng nhác tự cho mình là khôn ngoan
Hơn bảy người phát biểu với lý lẽ vững vàng.
17 Kẻ nắm lấy vành tai con chó khi nó đi ngang qua thể nào,
Kẻ tham dự vào cuộc cãi lộn của người khác cũng thể ấy.
18 Giống như kẻ điên cuồng phóng hỏa, bắn tên, và gây chết chóc,
19 Thì kẻ gạt người lân cận mình rồi nói, “Tôi chỉ giỡn chơi thôi mà!” cũng như vậy.
20 Khi hết củi, lửa bèn tắt rụi,
Khi không còn ai đâm thọc, cuộc cãi vã cũng thôi.
21 Đốt than làm cho nóng hực và đốt củi làm lửa cháy bùng thể nào,
Kẻ hay cãi khơi dậy sự xung đột cũng thể ấy.
22 Lời kẻ mách lẻo giống như miếng ăn ngon ngọt,
Chạy tọt vào gan ruột người nghe.
23 Bình bằng đất được mạ bạc thể nào,
Lòng hiểm ác được lưỡi ngọt ngào che khuất đi cũng thể ấy.
24 Kẻ ghét ta dùng môi ngụy trang khiến ta sơ ý,
Trong khi lòng nó có ý đồ cố ý hại ta.
25 Chớ vội tin khi nó nói ngon nói ngọt,
Vì trong lòng nó có bảy điều ghê tởm ẩn tàng.
26 Dù lòng ghen ghét của nó được ngụy trang bằng sự lừa dối,
Thì trước sau gì nó sự gian ác của nó cũng bị lộ ra giữa công chúng.
27 Kẻ nào đào hố để hại người sẽ bị sa vào hố đó,
Kẻ nào lăn đá để đè người sẽ bị đá đó lăn ngược lại đè bẹp dúm.
28 Lưỡi dối trá ghét các nạn nhân của nó,
Miệng dua nịnh gây thiệt hại biết bao.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu